Tuân thủ các quy trình xây dựng, phân tích, thông qua chính sách góp phần nâng cao chất lượng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật (phần 1)

Thứ Ba, Tháng Bảy 2, 2024 | 15:27

Để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp pháp, phù hợp với thực tiễn thì khâu phân tích, đánh giá chính sách cần phải được làm rất kỹ lưỡng, khoa học, có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân, các chuyên gia, nhà khoa học.

Khi một chính sách được đề ra cần xem xét, đánh giá sự cần thiết, mức độ tác động về các mặt kinh tế – xã hội, tính khả thi, điều kiện bảo đảm thực hiện của chính sách đó. Hơn nữa chính sách đó phải được xuất phát từ thực tiễn để giải quyết vấn đề của thực tiễn, phải có một quy trình chặt chẽ để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động phân tích, phê duyệt chính sách trước khi tiến hành soạn thảo.

Hiện tại, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia được giao nhiệm vụ sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa. Do vậy, việc tuân thủ các quy trình lập đề nghị nhằm đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về nội dung, thời gian là vô cùng cần thiết.

Luật ban hành VBQPPL năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) có điểm mới mang tính đột phá, đã quy định việc xây dựng, phân tích, thông qua chính sách trước khi soạn thảo VBQPPL theo hướng tách bạch với quy trình soạn thảo văn bản. Quy trình xây dựng chính sách được áp dụng đối với luật, pháp lệnh và một số loại nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Theo quy định của Luật, giai đoạn xây dựng, phê duyệt chính sách được quy định trong quá trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL. Tương ứng với mỗi loại hình VBQPPL, Luật ban hành VBQPPL quy định cụ thể về trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng VBQPPL.

Theo quy định của Luật ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành VBQPPL (sau đây gọi là Nghị định 34/2016/NĐ-CP) thì các VBQPPL phải xây dựng, phân tích, thông qua chính sách trước khi tiến hành soạn thảo, bao gồm: 

(1) Luật, pháp lệnh.

(2) Nghị quyết của Quốc hội quy định tại điểm b và c Khoản 2 Điều 15 của Luật; nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 16 của Luật gồm:

– Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành;

– Nghị quyết của Quốc hội về tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;

– Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội.

(3) Nghị định của Chính phủ quy định tại Khoản 3 Điều 19 của Luật, cụ thể:

 Nghị định để quy định vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

  1. Quy trình lập đề nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội

a) Chủ thể thực hiện

Bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm lập đề nghị xây dựng luật, thực hiện quy trình xây dựng, phân tích, thông qua chính sách.

b) Căn cứ lập đề nghị xây dựng VBQPPL

Luật năm 2015 quy định cụ thể các căn cứ để các bộ, cơ quan ngang bộ lập đề nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Điều 32. Theo đó, căn cứ để lập đề nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm:  

– Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;

– Kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh;

– Yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội; bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh;

– Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

c) Quy trình, thủ tục lập đề nghị xây dựng VBQPPL

Theo quy định của Luật năm 2015 (sửa đổi năm 2020), Nghị định 34/2016/NĐ-CP, Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là Nghị định 154/2020/NĐ-CP) thì quy trình lập đề nghị xây dựng luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm các bước sau:

Bước 1: Xây dựng nội dung chính sách.

– Xác định các vấn đề cần giải quyết

Căn cứ vào các kết quả cụ thể làm căn cứ lập đề nghị xây dựng văn bản, bộ, cơ quan ngang bộ sẽ xác định các vấn đề bất cập mà thực tiễn đặt ra cần phải giải quyết liên quan đến các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của mình. Thông qua việc tiến hành các hoạt động trên, bộ cơ quan ngang bộ cũng có thể phát hiện những vấn đề bất cập thuộc lĩnh vực quản lý của các cơ quan khác, từ đó có thể kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các bất cập đó.

– Xác định nguyên nhân của vấn đề cần giải quyết

Khi xác định được các vấn đề bất cập cần giải quyết trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của mình thì bộ, cơ quan ngang bộ phải làm rõ được nguyên nhân  gây ra các vấn đề đó. Các nguyên nhân có thể là:

+ Nguyên nhân từ thể chế: vấn đề trên thực tiễn là do các quy định của pháp luật trái với chủ trương đường lối của Đảng, không phù hợp với cam kết quốc tế, không phù hợp với văn bản mới, không còn phù hợp thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước,…

+ Nguyên nhân từ thực thi pháp luật: trách nhiệm triển khai thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước; sự tuân thủ pháp luật của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân,…

+ Nguyên nhân khác: sự hiểu biết pháp luật, điều kiện kinh tế xã hội của từng đơn vị hành chính,…

– Mục tiêu tổng thể, mục tiêu cụ thể cần đạt được khi giải quyết các vấn đề

Khi giải quyết vấn đề bất cập từ thực tiễn thì phải xác định rõ:

+ Mục tiêu tổng thể cần đạt được là gì?

+ Để đạt được mục tiêu tổng thể thì mục tiêu cụ thể phải đạt được ra sao?

Việc xác định rõ ràng các mục tiêu cần đạt được sẽ giúp cho bộ, cơ quan ngang bộ khi đề ra các chính sách, các giải pháp thực hiện chính sách đề giải quyết các vấn đề bất cập cần phải hướng tới các mục tiêu đã đề ra.

– Định hướng để giải quyết từng vấn đề

Trước các vấn đề cần giải quyết và nguyên nhân của từng vấn đề đã được xác định cụ thể ở trên. Căn cứ chủ trương đường lối của Đảng, Hiến pháp, các quy định của pháp luật, cơ quan lập đề nghị phải nêu cụ thể các định giải quyết từng vấn đề, kèm theo mỗi định hướng đó là các giải pháp thực hiện.

–  Xác định đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, nhóm đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện chính sách

Căn cứ vào các định hướng, giải pháp để giải quyết từng vấn đề cơ quan lập đề nghị xây dựng văn bản cần xác định rõ:

+ Ai là người chịu tác động trực tiếp của chính sách (cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân,…), nêu rõ tác động tích cực, tác động tiêu cực.

+ Ai là người chịu trách nhiệm thực hiện chính sách (cơ quan, tổ chức,…)

– Xác định thẩm quyền ban hành chính sách để giải quyết vấn đề

Từ các vấn đề cần giải quyết, định hướng giải quyết, các giải pháp cụ thể, cơ quan lập đề nghị phải xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền quyết định  giải quyết vấn đề: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội hay Chính phủ.

(Còn tiếp)

Vụ Pháp chế – Thanh tra