Thúc đẩy hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong tình hình mới

Thứ Hai, Tháng Ba 22, 2021 | 9:02

Thời gian qua, vượt lên những khó khăn, thách thức từ đại dịch Covid-19 và xu thế hội nhập quốc tế, ngành khoa học và công nghệ nói chung, tiêu chuẩn đo lường chất lượng nói riêng đã có những đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Trong đó, phải kể đến những dấu ấn trong việc triển khai các hoạt động về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.

Hoạt động xây dựng, ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn được đổi mới

Chia sẻ về những kết quả trong lĩnh vực TCĐLCL, ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL cho biết, đối với công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, giai đoạn 2016 – 2020, Tổng cục đã tổ chức tốt công tác tiếp nhận, thẩm định, trình công bố 3973 TCVN (Tiêu chuẩn Quốc gia), khoảng 88% TCVN hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, nâng tổng số TCVN trong hệ thống TCVN hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế đạt 60% (năm 2020 là 895 TCVN); tiếp nhận, thẩm tra và thẩm định 411 dự thảo QCVN (Quy chuẩn quốcgia) của các bộ, ngành xây dựng (năm 2020 là 78 dự thảo QCVN); hướng dẫn, góp ý hơn 86 QCĐP (Quy chuẩn địa phương) của địa phương (riêng năm 2020 là 70 QCĐP) góp phần hoàn thiện hệ thống TCVN, QCVN theo hướng đảm bảo tính hiệu quả, đồng bộ.

Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã được Tổng cục chú trọng nâng cao, đổi mới, tăng cường sự chủ động để hỗ trợ tốt hơn cho các Bộ/ngành.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Nguyễn Hoàng Linh nhận định, thời gian qua, hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã có nhiều bước đột phá. 

Riêng trong năm 2020, Tổng cục TCĐLCL đã thẩm định, công bố 895 TCVN tăng hơn 200% (năm 2019: 394 TCVN), nâng tổng số TCVN đã công bố hơn 13000 TCVN, với tỷ lệ 60% hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đã bao trùm hầu hết các lĩnh vực góp phần hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Tổng cục TCĐLCL đã tổ chức góp ý, thẩm định 78 dự thảo QCVN của các Bộ, ngành xây dựng và hướng dẫn xây dựng, góp ý 68 QCĐP của các tỉnh, thành phố.

Hoạt động xây dựng, thẩm định ban hành TCVN, quy chuẩn kỹ thuật đã có sự đổi mới, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, đồng thuận giữa các thành phần xã hội, phù hợp thông lệ quốc tế. Với tỷ lệ hài hòa cao như hiện nay (60%), hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đã trở thành công cụ hỗ trợ cho hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam hội nhập dễ dàng vào các thị trường lớn, khó tính như Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản khi Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do như EVFTA, RCEP đã ký kết và có hiệu lực.

Hệ thống TCVN trên cũng là công cụ hỗ trợ hoạt động xây dựng hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) với hơn 800 QCVN tập trung vào sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn, vệ sinh và ô nhiễm môi trường đảm bảo hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước. “Cũng trong giai đoạn 2016 – 2020, công tác đo lường đã giải quyết các thủ tục hành chính và công việc theo chức năng nhiệm vụ về đo lường được xử lý nhanh chóng, kịp thời góp phần nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo cho các tổ chức, cá nhân trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

Về hoạt động khảo sát, kiểm tra đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa (SPHH), Tổng cục đã tiến hành kiểm tra và khảo sát hơn 500 cơ sở với gần 2.000 mẫu hàng/năm, trong đó 20% số mẫu được kiểm tra không đạt về ghi nhãn và thực hiện kiểm tra nhà nước tổng số 1.200 lô xăng dầu nhập khẩu mỗi năm, tổng khối lượng khoảng hơn 8 triệu tấn”, ông Nguyễn Hoàng Linh cho hay.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa

Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh nhận định, cùng với sở hữu trí tuệ, hoạt động TCĐLCL có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về TCĐLCL sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và trật tự trong sản xuất, kinh doanh.

Vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý nhà nước giai đoạn tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như hoàn thiện chính sách, pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và các văn bản có liên quan phù hợp với các cam kết tại Hiệp định CPTPP, các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Cần thúc đẩy xã hội hóa hoạt động tiêu chuẩn, lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Ảnh: minh họa

Xây dựng Chiến lược tiêu chuẩn hóa giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn 2030: xây dựng mới các TCVN chiến lược, chủ chốt đáp ứng Chiến lược phát triển ngành công nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp, logistic, hàng hóa xuất khẩu chủ lực, y tế, an toàn thực phẩm, công nghệ thông tin, đô thị thông minh, sản xuất thông minh, năng lượng quốc gia…; xây dựng TCVN cho sản phẩm, hàng hóa chủ lực có tính đến tính cạnh tranh, lợi thế của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam. Duy trì hệ thống TCVN và đảm bảo sự tiếp cận nhanh nhất với sự phát triển của hệ thống tiêu chuẩn thế giới.

“Cần phải thúc đẩy xã hội hóa hoạt động tiêu chuẩn, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, xây dựng TCVN phải gắn chặt với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, kết nối TCVN với công nghệ mới, sản phẩm khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực, đảm bảo thống nhất cơ sở hạ tầng đo lường quốc gia, đảm bảo các hệ thống chuẩn đo lường quốc gia hoạt động ổn định, tin cậy, chính xác, giải quyết kịp thời yêu cầu của các bộ, ngành, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong tình hình mới”, ông Nguyễn Hoàng Linh nhấn mạnh.

Cũng theo ông Nguyễn Hoàng Linh, thời gian tới, việc thúc đẩy hoạt động cung cấp dịch vụ đo lường, hiệu chuẩn, kiểm định, đo thử nghiệm và hoạt động nghiên cứu khoa học về đo lường trong cả nước gắn với hoạt động đổi mới, sáng tạo cần được chú trọng để góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, đảm bảo sự đúng đắn, thống nhất, phục vụ kịp thời nhu cầu về đo lường của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp tại mỗi địa phương.

Ngoài ra, cần tạo dựng khung pháp lý quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, xác định sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 trên cơ sở mức độ rủi ro để xây dựng biện pháp quản lý phù hợp theo cơ chế “tiền kiểm”, “hậu kiểm”; chuyển mạnh từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” đối với hàng hóa nhập khẩu; hoàn thiện cơ chế hậu kiểm.

Phong Lâm