Nhiều rào cản về tăng năng suất lao động tại Việt Nam

Người viết: Yến Hoa Ngô Kiều - Ngày viết: Thứ Tư, Tháng Mười Hai 7, 2022 | 14:46 - Lượt xem: 488

Theo ý kiến chuyên gia, còn nhiều khó khăn, rào cản cản trở doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình nâng cao năng suất lao động.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư Trần Quốc Phương, tăng năng suất lao động (NSLĐ) là yếu tố quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và là điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, hướng tới mục tiêu là nước phát triển thu nhập cao vào năm 2045.

Trong giai đoạn vừa qua, NSLĐ của Việt Nam cũng có những cải thiện đáng kể. Tốc độ tăng NSLĐ bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 5,8%/năm, cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015 trước đó. Năm 2021, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam khoảng 4,7%, cao nhất trong các nước ASEAN.

Tăng trưởng kinh tế đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là nước có mức NSLĐ thấp và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Ông Đặng Đức Anh, Viện phó Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, NSLĐ của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng NSLĐ trong 10 năm 2011-2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016-2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%).

Tuy vậy, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và sự chênh lệch nội địa có xu hướng gia tăng. Trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù NSLĐ thấp nhưng tốc độ tăng tương đối cao do quá trình chuyển dịch cơ cấu.

Trong khi đó, NSLĐ của khu vực công nghiệp – xây dựng thấp và không ổn định, chủ yếu do tham gia ở phân khúc giá trị gia tăng thấp và sử dụng nhiều lao động, chưa thể hiện vai trò dẫn dắt và thúc đẩy tăng trưởng. NSLĐ của khu vực dịch vụ giữ xu hướng tăng nhưng thiếu ổn định và dựa nhiều vào các ngành dịch vụ truyền thống.

 Ảnh minh hoạ

Theo vùng kinh tế trọng điểm, NSLĐ không đồng đều, kết quả cao chủ yếu ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu,…) và chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam.

Đáng lưu ý, tốc độ tăng NSLĐ có xu hướng giảm dần, các địa phương “dẫn dắt” trong vùng chưa phát huy hết vai trò lan tỏa, chưa đóng vai trò thúc đẩy và lôi kéo tăng trưởng của vùng. NSLĐ của khu vực doanh nghiệp đạt 309,9 triệu đồng/lao động năm 2020, tăng 93,1% so với năm 2011; mức chênh lệch NSLĐ giữa các loại hình doanh nghiệp cũng ngày càng tăng.

Thực tế cho thấy, tư duy chính sách về mô hình, hoạt động kinh tế mới đã bước đầu hoàn thiện, nhấn mạnh đến NSLĐ, đổi mới sáng tạo và động lực cho doanh nghiệp. Tuy vậy, thể chế, chính sách vẫn chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến hiệu quả phối hợp thực hiện các giải pháp và chưa xác định rõ ràng vai trò, trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong đảm bảo thực hiện thực chất và hiệu quả.

Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành cho rằng, những rào cản chính đối với doanh nghiệp trong thúc đẩy NSLĐ bao gồm sự bất định khi đầu tư vào công nghệ; năng lực đổi mới phản ánh qua chất lượng quản lý còn yếu kém; lực lượng lao động thiếu những kỹ năng cần thiết và thiếu nguồn vốn đầu tư. Chất lượng nguồn lao động được cải thiện nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp (22,6%), kỹ năng lao động còn hạn chế. Do đó, chưa đóng góp nhiều vào tăng trưởng NSLĐ.

Gia tăng ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đang dần hình thành và hoàn thiện. Việt Nam đã tham gia vào chuỗi giá trị về sản phẩm công nghệ cao, nhưng chủ yếu lắp ráp linh kiện, công nghệ ít phức tạp và thông qua doanh nghiệp FDI. Đặc biệt, tiêu chuẩn về đổi mới sáng tạo ở khía cạnh phổ biến và khám phá đều ở mức dưới kỳ vọng; đầu tư cho khoa học – công nghệ ở mức khiêm tốn.

Với mục tiêu đến năm 2030 tốc độ tăng NSLĐ bình quân từ 6,5 – 7%/năm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, đứng trong nhóm hàng đầu của ASEAN về tốc độ tăng NSLĐ, CIEM kiến nghị cần thúc đẩy NSLĐ của các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng dựa trên hạ tầng kết nối, cơ chế đặc thù, phân cấp quản lý.

Đồng thời, thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, bao gồm công nghệ số, phát huy đổi mới sáng tạo để tăng NSLĐ. Đẩy nhanh quá trình chính thức hóa hoạt động kinh tế ở khu vực phi chính thức. Ngoài ra cần nghiên cứu thành lập cơ quan chuyên trách về NSLĐ quốc gia giai đoạn 2026 – 2030 để thúc đẩy và điều phối xử lý các vấn đề liên ngành đối với NSLĐ.

Các chuyên gia cũng thống nhất cho rằng việc xây dựng Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ là nhiệm vụ quan trọng, vừa có ý nghĩa thời sự nhằm sớm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giúp Việt Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Bộ này đã tiến hành tham vấn các tổ chức, chuyên gia trong nước, khảo sát các địa phương, tổ chức liên quan; trao đổi với các chuyên gia quốc tế triển khai Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ. Đến nay, dự thảo Đề án Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ và dự thảo nghị quyết của Chính phủ về Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ đang được gửi xin ý kiến các bộ, ngành.

Đề án tập trung vào phân tích NSLĐ theo ngành, vùng, thành phần kinh tế và các nhân tố tác động; cơ chế, chính sách ảnh hưởng đến NSLĐ, với phạm vi rộng hơn các đề án trước chỉ tập trung vào nguồn nhân lực; giáo dục – đào tạo; khoa học – công nghệ; đề cập, phân tích về ổn định kinh tế vĩ mô do tầm quan trọng đối với tạo môi trường ổn định cho cải cách vi mô, đầu tư đổi mới khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo…