Một số điểm mới trong QCVN 2:2021/BKHCN về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy
Người viết: Trương Vân - Ngày viết: Thứ Hai, Tháng Chín 13, 2021 | 15:24 - Lượt xem: 1534
Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành thông tư số 04/2021/TT-BKHCN về việc ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy QCVN 2:2021/BKHCN”.
1. Giới thiệu về QCVN 2:2021/BKHCN vừa ban hành
Ngày 15/06/2021, Bộ Khoa học và Công nghệ có thông tư số 04/2021/TT-BKHCN về việc ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy QCVN 2:2021/BKHCN” với lộ trình áp dụng như sau:
– Kể từ ngày 01/01/2024, các mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy (sau đây gọi tắt là mũ bảo hiểm, mũ) sản xuất trong nước, nhập khẩu phải đáp ứng các quy định tại QCVN 2:2021/BKHCN trước khi lưu thông trên thị trường;
– Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu mũ bảo hiểm áp dụng các quy định tại QCVN 2:2021/BKHCN kể từ ngày 01/08/2021;
– Các quy định trước đây liên quan đến quy chuẩn mũ bảo hiểm hết hiệu lực kể từ 01/08/2021;
– Mũ bảo hiểm đã chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy theo QCVN 2:2008/BKHCN trước ngày 01/01/2024 được tiếp tục lưu thông trên thị trường đến hết ngày 31/12/2024.
Nhìn chung quy chuẩn mũ bảo hiểm mới ban hành này có một số thay đổi so với phiên bản cũ, có các phần nội dung ít hơn và đặc biệt các yêu cầu kỹ thuật đều được viện dẫn từ tiêu chuẩn TCVN 5756:2017 “Mũ bảo hiểm cho người đi mô tô và xe máy”.
Dưới đây là phần điểm lại một số điểm mới, có thay đổi, khác biệt giữa hai phiên bản của quy chuẩn về mũ bảo hiểm.
2. Phạm vi điều chỉnh
Quy chuẩn mới 2021 có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao gồm việc áp dụng mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy, xe máy điện, xe đạp điện và các loại tương tự. Trong khi đó, phiên bản quy chuẩn cũ 2008 chỉ quy định cho đi mô tô và xe máy.
3.Phân loại
Theo vùng che phủ, QCVN 2:2008/BKHCN chỉ quy định có 3 loại là mũ che nửa đầu; mũ che cả đầu & tai; mũ che cả đầu, tai và hàm, còn quy chuẩn mới QCVN 2:2021/BKHCN chia thành 04 loại, có thêm loại mũ che ba phần tư đầu (như được quy định trong TCVN 5756:2017 là có 04 loại mũ).
Mũ che ba phần tư đầu gần giống như mũ che nửa đầu và có thêm phần che phủ sau ót.
4. Cỡ, thông số và kích thước cơ bản
Theo chu vi vòng đầu, phiên bản quy chuẩn cũ 2008 chia thành 03 nhóm cỡ mũ: nhỏ (dưới 500 mm); cỡ trung (500 mm – dưới 520 mm) và cỡ lớn (từ 520 mm trở lên).
Đối với QCVN 2:2021/BKHCN, các cỡ mũ được quy định cụ thể và viện dẫn theo Điều 4 TCVN 5756:2017 với 09 cỡ mũ có chu vi vòng đầu từ 460 mm đến 620 mm.
Như vậy theo phiên bản mới này, các cỡ mũ bao trùm các loại cỡ mũ từ trẻ con cho đến người lớn, đặc biệt có cỡ mũ 620 mm (cỡ số 9) là cỡ lớn nhất mới đưa vào.
Trong quy chuẩn mới có quy định về kích thước lưỡi trai, không được quá 70 mm (cho lưỡi trai rời tháo lắp được và không quá 50 mm (cho lưỡi trai liền khối với vỏ mũ).
5. Quy định kỹ thuật
5.1. Khối lượng mũ
QCVN 2:2021/BKHCN chỉ quy định khối lượng của mũ (kể cả các phụ kiện kèm theo) cho các loại mũ che nửa đầu, che ba phần tư đầu; theo đó không được lớn hơn:
– 0,8 kg cho các cỡ mũ 1, 2 và 3 [(460, 480 và 500) mm];
– 1,0 kg cho các cỡ mũ 4, 5, 6, 7, 8 và 9 [(520, 540, 560, 580, 600 và 620) mm].
Còn các cỡ mũ của loại mũ che cả đầu và tai, che cả đầu, tai và hàm đều không quy định về yêu cầu khối lượng của mũ. Lưu ý là trong TCVN 5756:2017 có quy định khối lượng cho tất cả các loại mũ. Quy chuẩn năm 2008 có quy định về khối lượng cho tất cả các cỡ mũ và các loại mũ bảo hiểm.
5.2. Độ bền va đập và hấp thu xung động
Nhìn chung, quy định mức yêu cầu kỹ thuật ở chỉ tiêu này của hai phiên bản là giống nhau. Tuy nhiên cần lưu ý là trong phiên bản mới, phương pháp thử độ bền va đập và hấp thu xung động có một số thay đổi đáng kể, sẽ được trình bày trong phần phương pháp thử.
5.3. Độ bền đâm xuyên; Quai đeo; Độ ổn định; Góc nhìn
Không có thay đổi về quy định yêu cầu kỹ thuật giữa hai phiên bản của quy chuẩn.
5.4. Kính bảo vệ
Trong phiên bản năm 2008, sử dụng từ “kính chắn gió” và quy định về hệ số truyền sáng là không được nhỏ hơn 85 %, còn trong QCVN 2:2021/BKHCN dùng từ “kính bảo vệ” ngoài kính trong suốt, có quy định thêm về hệ số truyền sáng cho kính màu nhạt, trong suốt là không nhỏ hơn 50 % (với yêu cầu trên kính có ghi chú “chỉ dùng cho ánh sáng ban ngày”).
6. Phương pháp thử
Các phương pháp thử cho hai phiên bản năm 2008 và 2021 của quy chuẩn mũ bảo vệ nhìn chung không có thay đổi nhiều, chỉ có điều kiện thuần hóa mẫu và phần thử độ bền va đập và hấp thu xung động là có khác biệt.
6.1. Thuần hóa mẫu
QCVN 2:2008/BKHCN quy định có hai điều kiện thuần hóa mẫu, trong khi QCVN 2:2021 quy định đến ba điều kiện thuần hoá mẫu.
– Điều kiện thuần hóa theo QCVN 2:2008/BKHCN
Điều kiện thuần hóa |
Nhiệt độ; oC |
Thời gian thuần hóa, h |
A. Nhiệt độ cao |
50 ± 2 |
4 đến 6 |
B. Ngâm nước |
23 ± 2 |
4 đến 6 |
– Điều kiện thuần hóa theo QCVN 2:2021/BKHCN
Điều kiện thuần hóa |
Nhiệt độ; oC |
Thời gian thuần hóa, h |
A. Nhiệt độ cao |
50 ± 2 |
4 đến 6 |
B. Ngâm nước |
23 ± 2 |
4 đến 6 |
C. Nhiệt độ thấp | – 10 ± 2 |
4 đến 6 |
Sở dĩ trong phiên bản mới 2021 của quy chuẩn (cũng như trong TCVN 5756:2017) có yêu cầu thêm điều kiện nhiệt độ thấp để thuần hóa mẫu, vì lý do:
– Nhằm phát hiện các loại vật liệu không đảm bảo theo yêu cầu tại 5.1 TCVN 5756:2017 “Vật liệu chế tạo mũ phải đảm bảo mũ không thay đổi đáng kể hình dạng và chức năng bảo vệ của mũ do ảnh hưởng của thời tiết, nhiệt độ và…”;
– Khi thuần hóa ở nhiệt độ thấp, chức năng bảo vệ thể hiện qua độ bền va đập và hấp thu xung động sẽ suy giảm đáng kể, nhất là các loại vật liệu nhựa tái sinh;
– Ở miền núi phía Bắc Việt Nam, có khi nhiệt độ xuống dưới 0 oC, cho nên yêu cầu thuần hóa ở nhiệt độ thấp là cần thiết;
– Áp dụng thuần hóa ở -10 oC cho phù hợp với sự hài hòa với các tiêu chuẩn nước ngoài. Các nước thường quy định thuần hóa ở -10 oC; kể cả một số nước ở vùng nhiệt đới như Thái Lan, Malaysia, Indonesia (yêu cầu -20 oC) v.v… Hơn nữa qua báo cáo khảo sát thì khi thử va đập và hấp thu xung động giữa hai điều kiện thuần hóa ở 0 oC và -10 oC là không có sai biệt đáng kể;
– Quy định thuần hóa ở nhiệt độ thấp cũng là cách tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước thuận tiện khi xuất khẩu mũ bảo hiểm.
6.2. Phương pháp thử độ bền va đập và hấp thu xung động
a. Các tiêu chuẩn nước ngoài trước đây thường quy định độ bền va đập và hấp thu xung động bằng phương pháp đo gia tốc dội lại, gia tốc kế được gắn trong dạng đầu mũ bảo hiểm (có quy định khối lượng toàn bộ) và được cho thả rơi tự do từ một độ cao nhất định rơi xuống đe bằng thép. Phép thử yêu cầu tất cả các loại mũ phải thử va đập hai lần, tại cùng một vùng, hai vị trí thử trên vùng không được sai biệt quá 6 mm.
Lưu ý là ở nước ngoài, người đi mô tô có dung tích xy lanh lớn, thường chạy với vận tốc cao nên các phép thử này tương đối là khắc nghiệt.
b. Gần đây, phiên bản mới của tiêu chuẩn Nhật Bản JIS T 8133:2007 “Proctective helmets for motor vehicle users” và tiêu chuẩn Đài Loan CNS 2396, Z 2009 “Protective helmets for drivers and passengers of motorcycle and mopeds” có thay đổi rõ rệt về phân loại mũ và phương pháp thử va đập & hấp thu xung động:
– Mũ dùng cho người đi mô tô có dung tích xy lanh nhỏ hơn hay bằng 125 cm3, chạy vận tốc đến 80 km/h thì được sử dụng loại mũ che nửa đầu hoặc loại mũ che ba phần tư đầu. Các loại mũ này thử va đập và hấp thu xung động chỉ một vị trí cho mỗi vùng thử;
– Mũ dùng cho người đi mô tô có dung tích xy lanh lớn hơn 125 cm3, chạy vận tốc cao trên 80 km/h thì phải sử dụng loại mũ che cả đầu và tai hoặc loại mũ che cả đầu, tai và hàm. Các loại mũ này thử va đập và hấp thu xung động ở hai vị trí cho mỗi vùng thử (như các quy định trước đây).
c. Từ cơ sở tham khảo hai tiêu chuẩn của Nhật Bản và Đài Loan ở trên, xem xét tương ứng với điều kiện giao thông, xã hội của nước ta, phiên bản mới của tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5756:2017 và QCVN 2:2021/BKHCN quy định thử va đập và hấp thu xung động gần giống như quy định trong hai tiêu chuẩn Nhật và Đài Loan.
d. Trong kỹ thuật thử va đập, có một lưu ý lớn là khi xem xét động năng va đập vào mũ; mặc dù có cùng khối lượng, cùng độ cao nhưng sẽ khác nhau nếu có sự ma sát trong quá trình trượt của khối dạng đầu mang mũ bảo hiểm rơi xuống.
Điều này đã được giải quyết trong phiên bản tiêu chuẩn TCVN 5756:2017, bằng cách đưa ra quy định vận tốc khi va đập, còn chiều cao rơi chỉ là giá trị tham khảo. Như vậy, với các thiết bị thử có độ ma sát cao hơn bình thường, người thử phải lưu ý nâng độ cao lên cho vận tốc khi va đập trên mũ đáp ứng yêu cầu.
e. Phương pháp thử va đập và hấp thu xung động chỉ một lần cho loại mũ thông dụng ở nước ta (mũ che nửa đầu và che ba phần tư đầu) trong phiên bản mới này.
Thử nghiệm va đập và hấp thu xung động theo QCVN 2:2008/BKHCN cho tất cả các loại mũ
Thông số thử nghiệm |
Cỡ nhỏ |
Cỡ trung và lớn |
Đe phẳng |
||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng trên mũ) |
2 (trong 4 vùng trên mũ) |
– Số vị trí thử cho mỗi vùng |
1 |
2 (tâm của 2 vị trí |
– Chiều cao rơi, mm |
1 500 – 1505 |
1 830 – 1 835 |
Đe cầu |
||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng, khác với vùng đã thử đe phẳng) |
2 (trong 4 vùng, khác với vùng đã thử đe phẳng) |
– Số vị trí thử cho mỗi vùng |
1 |
2 (tâm của 2 vị trí |
– Chiều cao rơi (tham khảo), mm |
1 200 – 1 205 |
1 385 – 1 390 |
Thử nghiệm va đập và hấp thu xung động theo QCVN 2:2021/BKHCN loại mũ che nửa đầu và loại mũ che ba phần tư đầu
Thông số thử nghiệm |
Cỡ 1 và 2 |
Các cỡ còn lại |
Đe phẳng | ||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng trên mũ) |
2 (trong 4 vùng trên mũ) |
– Số vị trí thử cho mỗi vùng |
1 |
1 |
– Vận tốc khi va đập, m/s |
5,10 – 5,25 |
5,80 – 5,95 |
– Chiều cao rơi (tham khảo), mm |
1 500 |
1 720 |
Đe cầu | ||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng, khác với vùng đã thử đe phẳng) |
2 (trong 4 vùng, khác với vùng đã thử đe phẳng) |
– Số vị trí thử cho mỗi vùng |
1 |
1 |
– Vận tốc khi va đập, m/s |
4,80 – 4,95 |
4,80 – 4,95 |
– Chiều cao rơi (tham khảo), mm |
1 170 |
1 170 |
Loại mũ che cả đầu và tai; loại mũ che cả đầu, tai và hàm
Cỡ dạng đầu |
Tất cả các cỡ dạng đầu (460 đến 620) mm |
|
Đe phẳng | ||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng trên mũ) |
|
– Số vị trí thử cho mỗi vùng |
2 (tâm của 2 vị trí |
|
Lần 1 |
Lần 2 |
|
– Vận tốc khi va đập, m/s |
6,20 – 6,35 |
5,00 – 5,15 |
– Chiều cao rơi (tham khảo), mm |
1 830 |
1 280 |
Đe cầu | ||
– Số vùng thử |
2 (trong 4 vùng, khác với vùng đã thử đe phẳng) |
|
– Số lần thử cho mỗi vùng |
2 |
|
Lần 1 |
Lần 2 |
|
– Vận tốc khi va đập, m/s |
6,20 – 6,35 |
5,00 – 5,15 |
– Chiều cao rơi (tham khảo), mm |
1 830 |
1 280 |
6.3. Các phương pháp thử độ bền đâm xuyên; quai đeo; độ ổn định; góc nhìn; kính bảo vệ
Phương pháp thử ở các chỉ tiêu này trong phiên bản quy chuẩn mới 2021 không có gì thay đổi, khác biệt so với phiên bản cũ năm 2008.
7. Ghi nhãn
Trong QCVN 2:2021/BKHCN ngoài các thông tin ghi nhãn theo phiên bản năm 2008, yêu cầu trên mũ và trên bao bì phải có ghi nhãn thêm các thông tin về:
– Xuất xứ hàng hóa;
– Kiểu mũ;
– Hướng dẫn sử dụng;
– Thông tin cảnh báo;
– Ghi khối lượng mũ cùng với dung sai khối lượng.
8. Quy định về quản lý
8.1. Mũ bảo hiểm sản xuất trong nước phải công bố hợp quy theo các quy định mới như Thông tư 06/2020/TT-BKHCN ngày 10/12/2020 và các văn bản pháp quy liên quan trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường.
8.2. Mũ nhập khẩu phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng, được gắn dấu CR trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường, trong khi đối với quy chuẩn năm 2008, các mũ nhập khẩu này phải được chứng nhận hợp quy.
8.3. Trong quy chuẩn năm 2021, có quy định việc thử nghiệm phục vụ chứng nhận hợp quy được thực hiện tại tổ chức thử nghiệm được chỉ định.
8.4. Các phương thức đánh giá sự phù hợp giống nhau giữa hai phiên bản của quy chuẩn là phương thức 5 và phương thức 7.
9. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
Trong QCVN 2:2021/BKHCN quy định nhiều hơn về trách nhiệm cho các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp nhập khẩu, tổ chức cá nhân phân phối mũ bảo hiểm, các tổ chức đánh giá sự phù hợp và các tổ chức chứng nhận.
10. Nhận xét chung
Phiên bản mới của quy chuẩn QCVN 2:2021/BKHCN này có một số thay đổi đáng kể về phân loại, thuần hóa mẫu thử và nhất là có quy định phương pháp thử ở chỉ tiêu va đập & hấp thu xung động cho loại mũ thường sử dụng ở nước ta, người đi xe chạy với vận tốc dưới 80 km/h là nhẹ nhàng hơn, phù hợp hơn so với phiên bản cũ.
Theo “Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật” ban hành ngày 29/06/2006 thì “… việc tổ chức rà soát quy chuẩn kỹ thuật định kỳ năm năm một lần hoặc sớm hơn khi cần thiết, kể từ ngày ban hành“. Với quy chuẩn mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy, chúng ta thấy đến hơn 10 năm mới được soát xét và ban hành lại.
Đinh Văn Trữ