Mối quan hệ giữa bằng sáng chế đo lường và hạ tầng chất lượng
Thứ Ba, Tháng Mười Hai 3, 2024 | 10:24
Khi tiếp tục nỗ lực đo lường sự phát triển cơ sở hạ tầng chất lượng (QI) và cải thiện việc thu thập dữ liệu QI để hiểu được sự đóng góp của QI vào tăng trưởng kinh tế, Ann Ramkissoon và công sự đã chuyển sự chú ý ở lĩnh vực đo lường. Họ đã xem xét mối quan hệ giữa Chỉ số cơ sở hạ tầng chất lượng toàn cầu (GQII) và số lượng bằng sáng chế đo lường được nộp để hiểu liệu nó có phải là thước đo phù hợp cho sự phát triển của đo lường hay không. Các tác giả kỳ vọng có mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa các mối quan tâm khác nhau, cho thấy các quốc gia có năng lực đo lường cao hơn có khả năng sẽ có nhiều đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường hơn.
Dữ liệu về hồ sơ cấp bằng sáng chế đo lường được truy cập từ Cơ sở dữ liệu thống kê bằng sáng chế toàn thế giới (PATSTAT) của Văn phòng sáng chế châu Âu (EPO) và dữ liệu về GQII được truy cập từ cơ sở dữ liệu GQII.
Nhóm nghiên cứu xem xét tổng số bằng sáng chế đo lường được nộp bởi cả quốc gia nộp đơn và quốc gia phát minh trong giai đoạn từ năm 2000 tới nay. Họ xem xét mối quan hệ này bằng cách sử dụng các tương quan vì chúng cho phép đánh giá các mô hình trong dữ liệu và xác định xem có tồn tại bất kỳ mối quan hệ nào đáng được khám phá thêm hay không. Kết quả của các tương quan được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Kết quả tương quan: Nguồn: Tác giả tự biên soạn bằng cách sử dụng dữ liệu từ GQII và EPO-PATSTAT Mức độ ý nghĩa: *p ≤ 0,05, **p ≤ 0,01, ***p ≤ 0,001.
Biến số |
Hệ số tương quan – Hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường – Quốc gia của người nộp đơn |
Hệ số tương quan – Hồ sơ sáng chế đo lường – Quốc gia của nhà phát minh |
Tổng điểm GQII |
0.3496*** |
0.3496*** |
Điểm số đo lường GQII |
2.3468*** |
2.3366*** |
Số lượng phòng hiệu chuẩn trong nước được công nhận theo ISO 17025 |
0.6642*** |
0.6674*** |
Số lượng chương trình key comparisons đã tham gia (so sánh chính) |
0.6792*** |
0.6829*** |
Số lượng chương trình supplementary comparisons đã tham gia (so sánh bổ sung) |
0.4672*** |
0.4721*** |
Khả năng đo và hiệu chuẩn (CMCs) |
0.6518*** |
0.6562*** |
Khối lượng và các đại lượng liên quan |
0.5782*** |
0.5822*** |
Điện và từ trường |
0.5549*** |
0.5458*** |
Độ dài |
0.3693** |
0.3666** |
Tần số và thời gian |
0.2373 |
0.2427 |
Nhiệt |
0.3297** |
0.3304** |
Quang học và bức xạ |
0.4539** |
0.4531** |
Lưu lượng |
0.7557*** |
0.7619*** |
Âm thanh và rung động |
0.0013 |
0.0056 |
Hóa học |
0.4996*** |
0.5107*** |
Đầu tiên, Ann Ramkissoon và công sự đã xem xét mối quan hệ giữa các hồ sơ cấp bằng sáng chế đo lường và tổng điểm GQII. Các hệ số tương quan cho thấy mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa, mặc dù ở mức độ vừa phải. Điều này cho thấy rằng trong khi các quốc gia có điểm GQII cao hơn có xu hướng có nhiều bằng sáng chế đo lường hơn, thì một số yếu tố khác lại làm nhiễu loạn mối quan hệ này.
Hình 1 cho thấy 5 quốc gia đứng đầu trong số 185 quốc gia trong bảng xếp hạng GQII (Đức, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Nhật Bản) có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường cao nhất. Cũng phù hợp với kỳ vọng của tác giả là các quốc gia như Brazil (17), Nam Phi (20), Malaysia (33) và Colombia (39), nằm trong top 50 của bảng xếp hạng GQII và cũng có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường cao. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ, với các quốc gia như Panama (99), Iceland (110) và Lichtenstein (164) xếp hạng tương đối thấp trong GQII trong khi có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường cao. Ngược lại, các quốc gia như Uzbekistan (67) và Ethiopia (83) được xếp hạng cao trong GQII trong khi có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường rất thấp.
Hình 2 cho thấy sự phân bố của các đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường tại Đức, Trung Quốc và Hoa Kỳ từ năm 2000 đến năm 2021. Đức, quốc gia đứng đầu trong GQII với tổng điểm là 99,37% và có bề dày phát triển QI, có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường tăng vừa phải trong giai đoạn này. Trong tập dữ liệu của Ann Ramkissoon và công sự, Đức có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường cao thứ ba, lần lượt xếp sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trung Quốc đứng thứ hai trong GQII, với tổng điểm là 99,12%. Mặc dù bắt đầu với số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường rất thấp, nhưng đã có sự gia tăng đáng kể từ năm 2015 đến năm 2020, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia có số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường cao thứ tư trong tập dữ liệu thu thập được. Hoa Kỳ đứng thứ ba trong GQII với tổng điểm là 98,85%. Hoa Kỳ đã duy trì vị trí dẫn đầu vượt trội về số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế đo lường, vượt xa các quốc gia khác trong giai đoạn này. Tuy nhiên, vị thế này có thể sớm bị thách thức khi Trung Quốc tiếp tục đà tăng trưởng.
Sau đó, Ann Ramkissoon và công sự xem xét mối quan hệ giữa hồ sơ cấp bằng sáng chế đo lường và chỉ số phụ về đo lường trong GQII. Tương tự như vậy, hệ số tương quan là dương, trung bình và có ý nghĩa thống kê.
Các tác giả đã đi sâu hơn vào các chỉ số nhỏ tạo nên thành phần đo lường của GQII để xem liệu có mối quan hệ nào giữa chúng và hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường hay không. Hệ số tương quan cho thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa số lượng phòng hiệu chuẩn được công nhận theo ISO 17025 và hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường. Tương tự như vậy, có mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa tổng số khả năng đo và hiệu chuẩn (CMCs) trong một quốc gia và hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường. Khi xem xét kỹ hơn mối quan hệ giữa CMCs và hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường, chúng ta thấy rằng các tác động mạnh hơn đối với các lĩnh vực đo lường sau: khối lượng và các đại lượng liên quan, điện và từ trường, và Lưu lượng. Các tác động vừa phải cũng có thể thấy đối với độ dài, nhiệt, quang học và bức xạ, và hóa học. Kết quả không đáng kể đối với tần số và thời gian, âm thanh và rung động. Cuối cùng, có một mối quan hệ vừa phải giữa tổng số so sánh bổ sung mà một quốc gia tham gia và hồ sơ nộp bằng sáng chế đo lường. Tất cả các mối tương quan đều có ý nghĩa thống kê ở mức thông thường.
Ý nghĩa của những mối tương quan này cho thấy các biến khác, đặc biệt là số lượng phòng hiệu chuẩn được công nhận theo ISO 17025, số lượng so sánh chính và số lượng CMCs, có thể là những đại diện tốt hơn cho sự phát triển của phép đo lường. Tuy nhiên, việc truy cập dữ liệu về những đại diện này với chuỗi thời gian đủ dài và ở mức độ chi tiết cần thiết cho phân tích thống kê chặt chẽ hơn vẫn còn là một thách thức.
Văn phòng quốc tế về cân đo (BIPM) thu thập dữ liệu về CMCs, cũng như về các so sánh chính và bổ sung. Tuy nhiên, chỉ một số dữ liệu này có thể truy cập được trên Cơ sở dữ liệu so sánh chính (KCDB) của BIPM. Ví dụ: chỉ có thể tải xuống dữ liệu gần đây nhất về tổng số CMCs được phân chia theo quốc gia, khu vực đo lường và tổ chức đo lường khu vực (RMO) (Ramkissoon và Harmes-Liedtke, 2024). Tuy nhiên, dữ liệu này không được chia nhỏ theo năm. Mặc dù không thể truy cập trực tiếp cho cộng đồng, dữ liệu theo dõi theo thời gian dường như có sẵn từ năm 2000 đến nay. Dữ liệu các năm của CMCs có thể được tải xuống cho từng quốc gia. Tuy nhiên, phải thực hiện từng quốc gia một, vì không có tùy chọn nào để tải xuống dữ liệu này cho nhiều quốc gia cùng lúc.
Về các so sánh chính và bổ sung, tình hình dữ liệu cũng tương tự. Mặc dù dữ liệu có sẵn từ khoảng năm 2000 đến nay, nhưng không được cung cấp theo định dạng tạo điều kiện thuận lợi cho phân tích thống kê. Có thể tải xuống dữ liệu gần đây từ KCDB về tổng số so sánh chính và bổ sung được phân tách theo khu vực đo lường và RMO (Ramkissoon và Harmes-Liedtke, 2024). Ngoài ra, dữ liệu tổng hợp về số lượng so sánh chính và bổ sung có sẵn cho từng quốc gia, với tùy chọn chọn nhiều quốc gia cùng lúc. Tuy nhiên, không có phân tích dữ liệu hàng năm ở cấp quốc gia. Mặc dù có thể phân tích dữ liệu hàng năm, nhưng nó tổng hợp tất cả các quốc gia thành một tổng số duy nhất, do đó mất đi độ chi tiết cần thiết cho phân tích thống kê.
Một rào cản lớn hơn nữa là việc tiếp cận dữ liệu chuỗi thời gian ở cấp quốc gia về số lượng phòng hiệu chuẩn được công nhận theo ISO 17025. Nhóm GQII đã thu thập dữ liệu này bằng cách gửi bảng câu hỏi đến các Cơ quan công nhận (AB) trên toàn thế giới. Các bảng câu hỏi đã hoàn thành sau đó được đối chiếu với dữ liệu được công bố trên trang web của AB. Đối với các AB không phản hồi, nhóm GQII dựa vào dữ liệu có sẵn trên trang web của họ. Toàn bộ quá trình này tốn nhiều thời gian và công sức, trở nên khó khăn hơn do sự khác biệt đáng kể về cách trình bày dữ liệu, khả năng truy cập, phạm vi và tần suất mà các AB cập nhật trang web của họ. Hiệp hội công nhận phòng thí nghiệm quốc tế (ILAC) thu thập dữ liệu về số lượng phòng hiệu chuẩn được công nhận theo ISO 17025 cho báo cáo thường niên của mình (Ramkissoon và Harmes-Liedtke, 2024). Có sẵn dữ liệu theo thời gian ít nhất 15 năm; tuy nhiên, dữ liệu này chỉ được trình bày dưới dạng đồ họa trong báo cáo và không được công khai ở định dạng cho phép phân tích thống kê. Hơn nữa, không rõ liệu dữ liệu do ILAC thu thập có được phân tách theo cấp quốc gia hay không. Với điều này, chúng ta chỉ có thể chắc chắn rằng dữ liệu cấp quốc gia cho chỉ số cụ thể này có sẵn cho những năm mà GQII được thu thập.
Tóm lại, trong khi các chỉ số như số lượng phòng hiệu chuẩn được công nhận theo ISO 17025, số lượng so sánh chính và số lượng CMC có thể đóng vai trò là đại diện mạnh hơn cho sự phát triển của ngành đo lường so với số lượng bằng sáng chế về đo lường được nộp, Ann Ramkissoon và công sự không thể tiếp tục điều tra những mối quan hệ này do những hạn chế về dữ liệu. Do đó, những khoảng trống dữ liệu này cản trở khả năng kiểm tra đóng góp của QI vào tăng trưởng kinh tế của nhóm nghiên cứu Ann Ramkissoon và công sự. Việc giải quyết những hạn chế về dữ liệu này sẽ cho phép khám phá mạnh mẽ hơn về vai trò của QI trong phát triển kinh tế và hỗ trợ các quyết định đầu tư và chính sách dựa trên bằng chứng cho QI.
Nguồn: https://qi4d.org/2024/11/14/the-relationship-between-metrology-patents-and-quality-infrastructure/
Tác giả Ann Ramkissoon: Nhà kinh tế phát triển đến từ Trinidad và Tobago. Hiện đang sống tại Florence, Ý. Bằng thạc sĩ về Kinh tế phát triển của Đại học Göttingen và Đại học Florence. Bằng cử nhân về Kinh tế, Chính trị và Nghiên cứu quốc tế của Đại học Warwick. Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi Tiến sĩ Peter Neuhäusler (Viện nghiên cứu hệ thống và đổi mới Fraunhofer ISI) và Tiến sĩ Abhishek Saurav (Ngân hàng Thế giới).