Thứ Tư, Tháng Năm 17, 2023 @ 11:25

Nhiều hoạt động hưởng ứng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2023

Hưởng ứng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2023, các tỉnh thành trên cả nước đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa, biểu dương và tôn vinh những nhà khoa học, đội ngũ cán bộ tri thức.

Chủ đề Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2023

Năm 2023, các hoạt động chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam theo chủ đề: “Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên nền tảng văn hóa Việt Nam”; “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – nâng cao tiềm lực và vị thế quốc gia”; “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – động lực phát triển bền vững” và khẩu hiệu: “Nhiệt liệt chào mừng Ngày khoa học và công nghệ Việt Nam”.

Nội dung hoạt động bao gồm: Tuyên truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa của Ngày KH&CN Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: Kỷ niệm 60 năm (18/5/1963 – 18/5/2023) ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội nghị Phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam: “Khoa học phải gắn với thực tiễn, phải từ thực tiễn và quay lại phục vụ chính thực tiễn, phải đáp ứng nhu cầu của sản xuất, phục vụ sản xuất, nhằm nâng cao năng suất lao động và nâng cao đời sống vật chất của nhân dân…”; Kỷ niệm 10 năm (18/5/2014-18/5/2023) tổ chức các hoạt động chào mừng Ngày KH&CN Việt Nam.

Tôn vinh quá trình lao động, sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam; tuyên truyền cơ chế, chính sách nhằm thu hút các cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam, khơi dậy niềm tự hào trí tuệ Việt, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ phát triển ngành KH&CN nước nhà.

Giới thiệu các chính sách, pháp luật mới được ban hành nhằm phát triển và ứng dụng KH&CN, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và ĐMST; các mục tiêu, định hướng lớn trong Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và ĐMST đến năm 2030, phương hướng, nhiệm vụ khoa học công nghệ và ĐMST của ngành KH&CN đến năm 2025.

Tuyên truyền rộng rãi các thành tựu khoa học công nghệ và ĐMST nổi bật góp phần thiết thực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo, có các không gian sáng tạo văn hóa đi cùng với sáng tạo công nghệ.

Nhân dịp này, Bộ KH&CN đã, đang và sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức chuỗi sự kiện lớn của ngành, cụ thể: Lễ hưởng ứng Ngày sở hữu trí tuệ thế giới 26/4; Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN Việt Nam 18/5; Lễ trao Giải thưởng báo chí KH&CN và Kỷ niệm 10 năm tổ chức xét tặng Giải thưởng báo chí về KH&CN; Lễ trao giải cuộc thi Sáng kiến khoa học 2023; Ngày hội STEM 2023; tham gia Techfest quốc tế tại Lào, Hàn Quốc, Australia,…

Nhiều hoạt động hưởng ứng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Lễ kỷ niệm Ngày KH&CN Việt Nam. Tham dự Lễ kỷ niệm có GS.VS Đặng Vũ Minh – Chủ tịch danh dự Liên hiệp Hội Việt Nam; TSKH Phan Xuân Dũng – Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam; PGS.TS Phạm Quang Thao – Phó chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam; PGS.TS Phạm Ngọc Linh – Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam; các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Cơ quan Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam.

Từ năm 2014 đến nay, Ngày KH&CN Việt Nam 18/5 đã trở thành dịp để các bộ, ngành, địa phương, các viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp tổ chức hoạt động phổ biến, giới thiệu các cơ chế, chính sách mới về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây cũng là dịp để giới thiệu những thành tựu nổi bật của KH&CN, góp phần khẳng định vị trí, vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0; tôn vinh, ghi nhận đóng góp của cộng đồng khoa học và công nghệ đối với đất nước.

Những năm qua, trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ chế, chính sách về KH&CN đã được tập trung hoàn thiện với nhiều quy định tiến bộ và đổi mới để khoa học và công nghệ thực sự đồng hành và thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực và địa phương.

Ngày KH&CN năm 2023 với chủ đề “Phát triển khoa học, công nghệ và đỏi mới sáng tạo trên nền tảng văn hóa Việt Nam”; “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – nâng cao tiềm lực và vị thế quốc gia”; “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – động lực phát triển bền vững”. Đây chính là thông điệp của niềm tự hào, niềm tin, là kỳ vọng, khát vọng của Dân tộc, của Đất nước, của Đảng đối với đội ngũ trí thức và những người làm công tác khoa học và công nghệ.

Phát biểu tại buổi Lễ, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam TSKH Phan Xuân Dũng khẳng định, Ngày KH&CN 18/5 năm nay đối với Liên hiệp Hội Việt Nam đặc biệt ý nghĩa. Chúng ta vừa long trọng tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt đội ngũ trí thức (18/5/1963-18/5/2023) và 40 năm Ngày thành lập Liên hiệp Hội Việt Nam (26/3/1983-26/3/2023). Buổi lễ đã được vinh dự đón đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiều đồng chí là lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng cho biết thêm, với vai trò và vị trí là tổ chức chính trị – xã hội của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức thành viên đã có nhiều nỗ lực, cố gắng hoạt động thiết thực trong việc tổ chức tên các hoạt động như nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, thúc đẩy ứng dụng KH&CN vào sản xuất và đời sống, tư vấn phản biện và giám định xã hội, truyền thông và phổ biến kiến thức trong đó hoạt động báo chí và xuất bản, hợp tác quốc tế, tôn vinh trí thức đối với các nhà khoa học và công nghệ, với tất cả tần lớp nhân dân tạo nên phong trào thi đua yêu nước rộng khắp cả nước.

Ngoài ra, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phan Xuân Dũng cho biết, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, kết quả hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm để ứng dụng, phổ biến và áp dụng sâu rộng trong thực tiễn, qua đó đã tác động to lớn đến phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh của đất nước, từng bước trở thành động lực then chốt của sự nghiệp đổi mới và phát triển. Có thể nói, mỗi bước tiến, bước đi lên rất đáng hào tự hào của dân tộc ta trong xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc không thể thiếu, không thể tách rời với sự đóng góp của trí thức KH&CN nước nhà, của những người yêu khoa học và sáng tạo đang suốt ngày đêm làm việc vì đất nước và Dân tộc.

Hòa chung với không khí chào mừng Ngày KH&CN Việt Nam, nhiều tỉnh thành cũng đã diễn ra nhiều hoạt động. Tiêu biểu như tại Bắc Giang, các hoạt động chào mừng diễn ra từ ngày 14/5-19/5/2023: Tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật KH&CN, vai trò của KH&CN và hoạt động Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo thông qua nhiều hình thức, viết tin, bài trên các báo, trang thông tin điện tử; xây dựng chuyên trang KH&CN chủ đề chào mừng Ngày KH&CN Việt Nam 18/5; thực hiện đăng tải các phóng sự, phim tài liệu về KH&CN trên các phương tiện thông tin đại chúng; treo băng rôn, khẩu hiệu, tổ chức mít tinh chào mừng ngày KH&CN Việt Nam. Đặc biệt, trong chuỗi sự kiện chào mừng năm nay sẽ tổ chức trao Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp KH&CN cho các cá nhân có thành tích đóng góp cho ngành KH&CN; Trao giải cho các tập thể, cá nhân có thành tích trong Hội thi tìm kiếm ý tưởng trong nghiên cứu khoa học tỉnh Bắc Giang lần thứ II (năm 2023). Đây chính là dịp để ghi nhận, tôn vinh những đóng góp lao động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành KH&CN tỉnh trong việc tham mưu hoạch định chính sách; cũng như thấy được rõ hơn vai trò của KH&CN trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bắc Giang.

Trong khi đó, Đại học Thái Nguyên tổ chức hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật về KH&CN, vai trò của khoa học công nghệ và hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, xây dựng và ban hành các quy định về KH&CN trong Đại học. Đặc biệt trong chuỗi sự kiện chào mừng năm nay, Đại học Thái Nguyên tổ chức Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học ĐHTN năm 2023; phối hợp với UBND tỉnh Bắc Giang tổ chức ngày hội STEM; Tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác chuyển đổi số năm 2022; Triển khai công tác tổ chức các hội thảo quốc tế, quốc gia.

Tại Cà Mau, nhiều hoạt động cũng được diễn ra như: Tuyên truyền, phổ biến về mục đích, ý nghĩa của Ngày KH&CN Việt Nam; Tôn vinh quá trình lao động, sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam; Giới thiệu các chính sách, pháp luật mới được ban hành nhằm phát triển và ứng dụng KH&CN, Tuyên truyền rộng rãi các thành tựu KH,CN & ĐMST nổi bật góp phần phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; Hội thảo “Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu, thử nghiệm và đề xuất đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh năm 2024”, nhằm trao đổi, thảo luận, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào sản xuất và đời sống…

Các tỉnh thành khác cũng đang tập trung lên kế hoạch cụ thể cho các hoạt động hưởng ứng ngày hội đặc biệt của đội ngũ trí thức khoa học công nghệ.

Theo VietQ

Thứ Năm, Tháng Mười Một 21, 2019 @ 17:15

Nhiều hoạt động ý nghĩa Kỷ niệm 60 năm thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ

Trong hai ngày (29-30/11/2019), Bộ khoa học và Công nghệ sẽ tổ chức Lễ Kỷ niệm 60 năm thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất.

Thông tin tại buổi họp báo về Lễ Kỷ niệm 60 năm thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho biết, 2019 là năm đánh dấu 60 năm xây dựng và phát triển của Bộ Khoa học và Công nghệ (1959-2019). Nhằm ôn lại truyền thống vẻ vang, những mốc son quan trọng trong chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển; tri ân và biểu dương đóng góp của các thế hệ cán bộ khoa học và công nghệ qua các thời kỳ, trong hai ngày (29-30/11/2019), tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tổ chức Lễ Kỷ niệm 60 năm thành lập Bộ.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc thông tin về Lễ Kỷ niệm 60 thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ. 

Tham dự Lễ Kỷ niệm có các đồng chí Lãnh đạo, nguyên Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước; Lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; Lãnh đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đại diện các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, các Đại sứ quán và Tổ chức quốc tế; các nhà khoa học và các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Bộ Khoa học và Công nghệ, tiền thân là Ủy ban Khoa học Nhà nước, được thành lập theo Sắc lệnh số 016-SL ngày 04/3/1959 của Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 60 năm đồng hành cùng đất nước và dân tộc theo chiều dài lịch sử, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có những đóng góp quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục có những đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, củng cố tiềm lực quốc phòng và an ninh, phát triển bền vững đất nước.

Quang cảnh buổi họp báo. 

Cũng theo Thứ trưởng Phạm Công Tạc, tại Lễ Kỷ niệm, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Lễ Kỷ niệm là dịp để các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Bộ Khoa học và Công nghệ điểm lại những trang sử vẻ vang đã qua và thể hiện quyết tâm đoàn kết, nhất trí đưa nền khoa học và công nghệ nước nhà phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

“Lễ kỷ niệm 60 năm ghi dấu chặng đường thành lập và trưởng thành của Bộ Khoa học và Công nghệ bằng việc đón nhận Huân chương lao động hạng Nhất cùng những thành tựu hiện hữu trong phát triển kinh tế xã hội. Song hành với sự phát triển đó là sự ra đời của Bộ Khoa học và Công nghệ với nhiều đóng góp trong công tác quản lý, xây dựng hành lang pháp lý, chính sách thúc đẩy khoa học, công nghệ phát triển.

Lễ kỷ niệm không chỉ điểm lại dấu mốc vàng son của ngành, những cá nhân nhà khoa học xuất sắc hay những bước ngoặt lịch sử cùng chặng đường phát triển của đất nước mà còn gửi đến những thông điệp tương lai về xu hướng và tầm quan trọng trong chiến lược phát triển khoa học, công nghệ đối với từng lĩnh vực đời sống, văn hóa, xã hội… Trong khuôn khổ chương trình kỷ niệm, những hoạt động triển lãm thành tựu khoa học công nghệ, hội thảo kết nối khoa học công nghệ với kinh doanh, thảo luận và thuyết trình cũng sẽ diễn ra sôi nổi”, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cho hay.

Theo thông tin thêm từ Bộ Khoa học và Công nghệ, một trong những hoạt động quan trọng bên lề Lễ Kỷ nhiệm là Triển lãm thành tựu 60 năm của ngành Khoa học và Công nghệ. Triển lãm được chia thành 2 khu vực: Khu vực thứ nhất gồm 55 gian hàng của các doanh nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ tiêu biểu có nhiều thành tích trong hoạt động khoa học và công nghệ, có sản phẩm, dịch vụ đã được ứng dụng thành công. Khu vực thứ hai là khu trưng bày lịch sử, truyền thống phát triển của ngành khoa học và công nghệ; Hội thảo “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vì mục tiêu phát triển bền vững”.

Hán Hiển

 

 

Thứ Sáu, Tháng Một 8, 2021 @ 19:29

Hoạt động Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng: Thực hiện thắng lợi nhiều ‘mục tiêu kép’

Ngày 8/01/2020, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2020, Tổng kết giai đoạn 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ 2021, giai đoạn 2021-2025.

Tham dự Hội nghị về phía Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có ông Huỳnh Thành Đạt – UVBCHTWĐ, Bí thư Ban Cán sự, Bộ trưởng Bộ KH&CN; ông Lê Xuân Định – Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Bộ KH&CN cùng đại diện lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ.

Về phía Văn phòng Chính phủ, có sự tham dự của ông Chu Đức Nhuận – Vụ trưởng và ông Nguyễn Việt Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa giáo Văn xã. 

Về phía Bộ Tư pháp có ông Lê Đại Hải – Phó vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế

Về phía địa phương có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Sở KH&CN Tỉnh Sơn La, tỉnh Ninh Bình và các sở ban ngành địa phương khác.

Về phía Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) có Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh, Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh, Phó tổng cục trưởng Hà Minh Hiệp và đại diện lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc Tổng cục.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị

Tại hội nghị, Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh đã báo cáo tổng kết các kết quả công tác năm 2020, tổng quan giai đoạn 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ năm 2021, giai đoạn 2021-2025.

Theo Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh, năm 2020 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, giai đoạn 2016 – 2020 và là năm nền tảng để chuẩn bị xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, giai đoạn 2021 – 2030 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, giai đoạn 2021 – 2025. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tình hình kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế có những biến động không nhỏ nhưng dưới sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ KH&CN, Tổng cục TCĐLCL đã triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong đó tập trung vào các nhiệm vụ chỉ đạo điều hành thực hiện ứng phó, giảm thiểu tác động của đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội để thực hiện “mục tiêu kép”.

Thứ trưởng Lê Xuân Định và Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh điều hành Hội nghị

Những điểm sáng trong hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng

Trong công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, giai đoạn 2016 – 2020, Tổng cục đã tổ chức tốt công tác tiếp nhận, thẩm định, trình công bố 3973 TCVN (Tiêu chuẩn Quốc gia), khoảng 88%TCVN hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, nâng tổng số TCVN trong hệ thống TCVN hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế đạt 60% (năm 2020 là 895 TCVN); tiếp nhận, thẩm tra và thẩm định 411 dự thảo QCVN của các bộ, ngành xây dựng (năm 2020 là 78 dự thảo QCVN); hướng dẫn, góp ý hơn 86 QCĐP (Quy chuẩn địa phương) của địa phương (riêng năm 2020 là 70 QCĐP) đã góp phần hoàn thiện hệ thống TCVN, QCVN (Quy chuẩn Quốc gia) theo hướng đảm bảo tính hiệu quả, đồng bộ.

Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã được Tổng cục chú trọng nâng cao, đổi mới, tăng cường sự chủ động để hỗ trợ tốt hơn cho các Bộ/ngành. Riêng năm 2020, công tác soạn thảo và ban hành TCVN, QCVN được đẩy mạnh với tỷ lệ hơn 90% TCVN xây dựng mới hài hòa quốc tế và khu vực.

 Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh trình bày báo cáo tại Hội nghị

Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2016 – 2020, công tác đo lường đã giải quyết các thủ tục hành chính và các công việc theo chức năng nhiệm vụ về đo lường được xử lý nhanh chóng, kịp thời góp phần nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo cho các tổ chức, cá nhân trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

Trong đó, Tổng cục đã thực hiện việc quản lý, cấp giấy chứng nhận đăng ký cung cấp dịch vụ kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường cho 783 lượt đơn vị (năm 2020 là 177 lượt); Chỉ định hoạt động kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường cho 508 lượt đơn vị (năm 2020 là 131 lượt, tăng 61,7% so với năm 2019); Chứng nhận 739 chuẩn đo lường dùng trực tiếp để kiểm định phương tiện đo nhóm 2 (năm 2020 là 168 CĐL tăng 11,2% so với năm 2019); Chứng nhận, cấp 6.239 thẻ kiểm định viên đo lường (năm 2020 là 1.352 thẻ, giảm 15% so với năm 2019); Phê duyệt 17.747 mẫu phương tiện đo nhập khẩu, sản xuất trong nước (năm 2020 là 3.248 mẫu PTĐ, giảm 39% so với năm 2019).

 
Các đại biểu tham dự hội nghị

Trong hoạt động khảo sát, kiểm tra đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa (SPHH), Tổng cục đã tiến hành kiểm tra và khảo sát hơn 500 cơ sở với gần 2.000 mẫu hàng/năm, trong đó 20% số mẫu được kiểm tra không đạt về ghi nhãn và thực hiện kiểm tra nhà nước tổng số 1.200 lô xăng dầu nhập khẩu mỗi năm, tổng khối lượng khoảng hơn 8 triệu tấn.

Trong giai đoạn 2016 – 2020, hoạt động hợp tác quốc tế cũng được Tổng cục TCĐLCL đẩy mạnh và đạt được hiệu quả cao với nhiều thỏa thuận hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp đã được Tổng cục ký kết. Tổng cục cũng đã chủ trì tổ chức thành công nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế, việc tổ chức thành công các hội nghị, hội thảo quốc tế đã góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam nói chung và Bộ KH&CN, Tổng cục nói riêng đồng thời được các bạn quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt là trong năm APEC 2017 và ASEAN 2020. 

Về chương trình quốc gia Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020, Tổng cục đã thực hiện tốt công tác đầu mối triển khai Quyết định số 712/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Đến nay, hệ thống TCVN có khoảng 13.000 TCVN với mức độ hài hòa tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt khoảng 60%; hệ thống QCVN được hoàn thiện với khoảng 800 QCVN; gần 1200 tổ chức đánh giá sự phù hợp (ĐGSPH) đăng ký hoạt động ĐGSPH tại Bộ KH&CN và các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và đều có năng lực theo chuẩn mực quốc tế, được thừa nhận và công nhận quốc tế; đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn đạt mức trên 40%; xây dựng hơn 100 bộ chương trình, tài liệu đào tạo về tiêu chuẩn hóa, quản lý chất lượng, quản lý đo lường, ĐGSPH, kỹ năng quản lý dự án NSCL, kiến thức cơ bản, nâng cao về NSCL, các kiến thức chuyên sâu về các hệ thống, công cụ cải tiến NSCL và tổ chức đào tạo trực tuyến cho hơn 6000 lượt người, đào tạo qua mạng (Web-based training) cho hơn 300 lượt người; đưa nội dung NSCL vào chương trình đào tạo của các trường dạy nghề, quản lý, nghiệp vụ về KH&CN…Ngoài ra nghiên cứu, lựa chọn, phổ biến, hướng dẫn áp dụng trên 30 loại các HTQL/MH/CC vào hơn 50.000 doanh nghiệp với các mức độ khác nhau.

Đánh giá giai đoạn 2016 – 2020, Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Hoàng Linh cũng cho rằng, Tổng cục đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch hành động của Bộ thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện các nhiệm vụ được giao tại các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ; tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, duy trì chế độ làm việc theo quy chế, phân công nhiệm vụ rõ ràng; thống nhất và từng bước đổi mới trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; tích cực, sát sao chỉ đạo, giải quyết các vấn đề phát sinh; Tăng cường kiểm tra, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về TCĐLCL.

Nỗ lực bứt phá, hoàn thành phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm

Đề cập đến phương hướng hoạt động giai đoạn 2021-2025, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Nguyễn Hoàng Linh đã đưa ra 5 phương hướng và 10 nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2021.

Theo đó, về phương hướng, Tổng cục tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa (CLSPHH) và tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật (TCQCKT); Xây dựng Kế hoạch triển khai Chương trình hành động của Bộ KH&CN thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP hằng năm và tổ chức thực hiện; Nâng cao hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2025, tầm nhìn 2030; Thúc đẩy cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số, áp dụng công nghệ thông tin; Tăng cường hoạt động tuyên truyền về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.

Sau khi nghe báo cáo do Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Nguyễn Hoàng Linh trình bày, Hội nghị đã nghe những tham luận của Vụ Đánh giá hợp chuẩn hợp quy; Vụ Tiêu chuẩn; Vụ Hợp tác Quốc tế; Vụ Đo lường, Vụ Tổ chức Cán bộ; Trung tâm Kỹ thuật TCĐLCL 3 của Tổng cục; tham luận của Sở KH&CN Sơn La, Sở KH&CN Ninh Bình…

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao những kết quả nổi bật mà Tổng cục TCĐLCL đã đạt được trong năm vừa qua. Đồng thời, Bộ trưởng cũng đề ra các nhiệm vụ trọng tâm cơ bản mà Tổng cục cần thực hiện trong thời gian sắp tới.

Thứ nhất là cần tổ chức đánh giá việc thực hiện, đề xuất phương án tiếp tục hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý về chất lượng, sản phẩm hàng hóa, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Trong đó, tập trung vào việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn chất lượng; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa và các văn bản có liên quan, bảo đảm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội phù hợp với các cam kết tại Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Thứ hai, tập trung triển khai hiệu quả các đề án, chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiêu biểu là Đề án tăng cường đổi mới hoạt động đo lường để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế năm 2025 định hướng đến năm 2030, Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc; Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và sản phẩm hàng hóa giai đoạn 2021-2030.

Thứ ba, tập trung xây dựng và triển khai phương án cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và thủ tục hành chính về tiêu chuẩn đo lường chất lượng giai đoạn 2021-2025. Bên cạnh đó, tiếp tục cải cách đẩy mạnh thủ tục hành chính dịch vụ công mà Tổng cục đang cung cấp theo hướng tăng cường thực hiện trực tuyến ở mức độ 3, mức độ 4, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Ông Chu Đức Nhuận – Vụ trưởng Vụ Khoa giáo Văn xã Văn phòng Chính phủ phát biểu tại Hội nghị

Thứ tư, xây dựng kiện toàn bộ máy, tổ chức theo đúng quy định để đáp ứng nghị định đã ban hành. Đồng thời chủ động, tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng, hỗ trợ các đơn vị chi cục, trung tâm TCĐLCL trong cả nước, đảm bảo các vai trò quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng từ Trung ương đến đia phương. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp, thống nhất giữa các đơn vị; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Tổng cục.

Thứ năm, tăng cường sự phối hợp trong cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội trong Tổng cục, tăng cường kỷ luật kỷ cường, dân chủ công khai minh bạch, tạo sự đoàn kết nhât trí trong các hoạt động tại Tổng cục.

Cũng theo Bộ trưởng, mảng hoạt động của Tổng cục rất rộng, sự đóng góp rất lớn cho kinh tế – xã hội. Cũng còn nhiều khó khăn, vướng mắc đang làm khó cho hoạt động của Tổng cục. Sắp tới sẽ tăng cường giải quyết các khó khăn, vướng mắc đó, nhất là những vướng mắc tồn tạo lâu, cần tập trung giải quyết. Ngoài ra, còn nhiều nhiệm vụ trọng tâm khác cần thảo luận, tập trung giải quyết trong thời gian tới.

Với định hướng phát triển đúng đắn, quyết tâm cao của Tổng cục, tin tưởng rằng hoạt động TCĐLCL sẽ còn phát triển hơn nữa, đóng góp to lớn vào xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội đất nước; hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ KH&CN giao phó.

Thay mặt cho Đảng ủy, Lãnh đạo và cán bộ công chức, viên chức của Tổng cục, Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh cảm ơn những đánh giá, chỉ đạo và và định hướng của Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt. Tổng cục xin tiếp thu các ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng và cho rằng, các ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng sẽ được đưa vào nghị quyết, thực hiện nhiệm vụ trong năm 2021 và giai đoạn tiếp theo.

Theo ông Chu Đức Nhuận – Vụ trưởng Vụ Khoa giáo Văn xã Văn phòng Chính phủ, trong lúc khó khăn của đại dịch Covid-19, Tổng cục TCĐLCL đã vào cuộc trên tinh thần của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chống dịch như chống giặc, vào cuộc hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong đó có các mặt hàng trang thiết bị y tế như khẩu trang, máy thở, găng tay…, phục vụ nhu cầu trong nước, xuất khẩu.

“Tổng cục đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ QLNN và chuyên môn. Trong 5 năm qua, đặc biệt trong năm 2020, đã quan tâm xây dựng thể chế chính sách, phục vụ QLNN, xây dựng được 64 VBQPPL. Tham mưu được một khối lượng đồ xộ các văn bản. Hoàn thành tốt các đề án, đảm bảo tiến độ theo yêu cầu, không có đề án nào để lại sang năm sau. Đây là điều rất hiếm ở các bộ ngành và địa phương. Chất lượng các đề án ngày càng được nâng cao. Không có các đề án bị đính chính sửa đổi hoặc bị doanh nghiệp phản ứng”, ông Chu Đức Nhuận đánh giá.

Cũng theo ông Chu Đức Nhuận, lĩnh vực QLNN rộng, ít có hoạt động nào có tới 3 luật (Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Đo lường) điều chỉnh. Đây là sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ KHCN.

“Chính nhờ sự tập trung, quan tâm tới các mảng hoạt động chuyên ngành của Tổng cục nên các hoạt động này gắn liền với DN, hỗ trợ DN SXKD, xuất khẩu… Cũng nhờ đó mà hàng hóa xuất khẩu của DN đáp ứng các tiêu chí của thị trường quốc tế, đúng như tinh thần chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ.

“Trong những năm gần đây, Tổng cục tích cực hỗ trợ khó khăn của DN. Hỗ trợ cho các bộ ngành, DN tháo gỡ các tiêu chuẩn, quy chuẩn; hỗ trợ xây dựng, thẩm định, ban hành các TCVN, QCVN.  Tổng cục hợp tác chặt chẽ với Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp trong việc xây dựng các đề án, văn bản, làm cho chất lượng ngày càng nâng cao và hoàn thành tiến độ tốt hơn. Với niềm tin và sự tin tưởng vào trách nhiệm, trình độ, Tổng cục sẽ hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ 2021, và các chương trình dài hạn hơn”, ông Chu Đức Nhuận cho biết thêm.


Hà My – Hồng Anh

Thứ Hai, Tháng Năm 29, 2023 @ 10:32

Sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp

Trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Bộ KH&CN đề xuất sửa đổi quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp.

Mục tiêu hướng tới

Theo Bộ KH&CN, mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp là nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn quản lý, phù hợp với thông lệ quốc tế, thay đổi cách thức quản lý các tổ chức đánh giá sự phù hợp cho phù hợp với thực tế và hội nhập quốc tế (đặc biệt là các cam kết tại CPTPP, EVFTA, RCEP).

Đồng thời, hạn chế chồng chéo về quản lý giữa các bộ quản lý ngành, lĩnh vực; giúp cho tổ chức đánh giá sự phù hợp nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình; thừa nhận kết quả đánh giá chỉ định của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, kết quả công nhận của tổ chức công nhận để tránh trường hợp một tổ chức đánh giá sự phù hợp bị tiến hành đánh giá năng lực nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí cho xã hội; quản lý hoạt động đào tạo chuyên gia đánh giá hệ thống quản lý, chuyên gia đánh giá chứng nhận sản phẩm, thử nghiệm viên, giám định viên, kiểm định viên, chuyên gia đánh giá công nhận, chuyên gia năng suất chất lượng để hình thành đội ngũ chuyên gia đánh giá sự phù hợp có năng lực của Việt Nam.

Bên cạnh đó, nâng cao năng lực, chất lượng của các tổ chức đánh giá sự phù hợp và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động đánh giá sự phù hợp tại Việt Nam; Phù hợp tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị quyết, Chiến lược của Chính phủ.

Để đưa ra các đề xuất sửa đổi, bổ sung, Bộ tiến hành nghiên cứu thay đổi cách thức quản lý các tổ chức đánh giá sự phù hợp cho phù hợp với thực tế và hội nhập quốc tế (đặc biệt là các cam kết tại CPTPP, EVFTA, RCEP), theo đó tổ chức đánh giá sự phù hợp tự công bố năng lực phù hợp với điều kiện do cơ quan quản lý nhà nước quy định trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Tổ chức đánh giá sự phù hợp chịu trách nhiệm về tính pháp lý đối với các kê khai của mình. Cơ quan quản lý sẽ công bố danh sách các tổ chức đã công bố năng lực phù hợp với điều kiện quy định và thực hiện công tác hậu kiểm.

Nghiên cứu, bổ sung quy định về chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp theo hướng thừa nhận kết quả đánh giá chỉ định của các bộ quản lý ngành, lĩnh vực, kết quả công nhận của tổ chức công nhận hoặc Bộ KH&CN làm đầu mối, phối hợp với các bộ quản lý ngành, lĩnh vực tổ chức đánh giá thực tế tại các tổ chức đánh giá sự phù hợp;

Nghiên cứu, bổ sung quy định giao Bộ KH&CN quản lý hoạt động đào tạo chuyên gia đánh giá hệ thống quản lý, chuyên gia đánh giá chứng nhận sản phẩm, thử nghiệm viên, giám định viên, kiểm định viên, chuyên gia đánh giá công nhận, chuyên gia năng suất chất lượng để hình thành đội ngũ chuyên gia đánh giá sự phù hợp của Việt Nam; nghiên cứu, bổ sung quy định về thử nghiệm trọng tài, so sánh liên phòng, thử nghiệm thành thạo.

Ảnh minh họa

Giải pháp thực hiện

Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động đánh giá sự phù hợp tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại một số điều, khoản.

Sửa đổi, bổ sung Điều 3 về giải thích từ ngữ

– Sửa đổi khoản 8 thành khoản 8a quy định khái niệm về “đánh giá sự phù hợp” và khoản 8b quy định khái niệm về “tổ chức đánh giá sự phù hợp”, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.
– Bổ sung khoản 10a quy định khái niệm về “thử nghiệm trọng tài/thử nghiệm kiểm chứng”.
– Bổ sung khoản 19 quy định khái niệm về “xác nhận giá trị sử dụng/thẩm định”.
– Bổ sung khoản 20 quy định khái niệm về “kiểm tra xác nhận/thẩm tra”.
– Bổ sung khoản 21 quy định khái niệm về “công nhận”.

Sửa đổi, bổ sung Điều 6 về chính sách của nhà nước về hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa

– Tại khoản 3, bổ sung nội dung đầu tư, phát triển hệ thống thử nghiệm, thử nghiệm trọng tài/thử nghiệm kiểm chứng.
– Tại khoản 4, bổ sung nội dung đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia đánh giá hệ thống quản lý, chuyên gia đánh giá chứng nhận sản phẩm, thử nghiệm viên, giám định viên, kiểm định viên, chuyên gia đánh giá công nhận, chuyên gia năng suất chất lượng để hình thành đội ngũ chuyên gia đánh giá sự phù hợp của Việt Nam.

Tại khoản 7 Điều 19 về quyền của tổ chức đánh giá sự phù hợp: bổ sung quy định thu chi phí chứng nhận theo quy định tại Điều 58 của Luật này để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.

Sửa đổi, bổ sung Điều 25 về đánh giá sự phù hợp

– Tại khoản 1, bổ sung điểm c quy định về thử nghiệm trọng tài/thử nghiệm kiểm chứng.
– Tại điểm b khoản 5, sửa đổi theo hướng các tổ chức đánh giá sự phù hợp phải được công nhận hệ thống quản lý phù hợp với yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế tương ứng để bảo đảm hoạt động thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp, hội nhập kinh tế quốc tế.
– Bổ sung điểm d khoản 5 quy định điều kiện đối với tổ chức đánh giá sự phù hợp ở nước ngoài thực hiện đánh giá sự phù hợp tại Việt Nam để thi hành các cam kết về loại bỏ rào cản kỹ thuật đối với thương mại trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định CPTPP, EVFTA, RCEP…
– Bổ sung khoản 6 quy định về thừa nhận kết quả đánh giá chỉ định giữa các bộ quản lý ngành, lĩnh vực để giải quyết khó khăn, vướng mắc hiện nay như một tổ chức đánh giá sự phù hợp bị tiến hành đánh giá năng lực nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí cho xã hội.

Tại khoản 5 Điều 69 về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ KH&CN: bổ sung quy định giao Bộ KH&CN quản lý hoạt động đào tạo chuyên gia đánh giá hệ thống quản lý, chuyên gia đánh giá chứng nhận sản phẩm, thử nghiệm viên, giám định viên, kiểm định viên, chuyên gia đánh giá công nhận, chuyên gia năng suất chất lượng để hình thành đội ngũ chuyên gia đánh giá sự phù hợp của Việt Nam.

Theo VietQ

Thứ Ba, Tháng Năm 23, 2023 @ 14:33

Nhận diện khó khăn và kiến nghị cải thiện năng suất lao động trong bối cảnh hiện nay

Nâng cao năng suất lao động không chỉ là nhu cầu của doanh nghiệp mà còn là yêu cầu quan trọng của mỗi quốc gia. Một quốc gia có năng suất lao động lớn là quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế cao. Chính vì vậy, Việt Nam luôn coi trọng năng suất lao động, coi đây là một trong những yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên gần đây, năng suất lao động ở Việt Nam đang có dấu hiệu chậm lại, đặt ra không ít thách thức cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Thực trạng tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam

Trong những năm qua, Việt Nam có nhiều bước tiến trong việc cải thiện năng suất lao động, tuy nhiên tốc độ tăng năng suất lao động vẫn còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Singapore. Giai đoạn từ 2011-2021, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-4%/năm, thấp hơn so với tăng trưởng GDP (5-6%/năm).

Trong hai năm 2021-2022, Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ của đại dịch COVID-19, những gián đoạn trong chuỗi cung ứng, sự thiếu hụt về nguồn nhân lực và các biện pháp giãn cách xã hội đã khiến tốc độ tăng năng suất lao động bị giảm sút so với giai đoạn trước (hình 1), gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và gia tăng tình trạng lạm phát.

Hình 1. Tốc độ tăng năng suất lao động 2011-2022 (theo Tổng cục Thống kê).  

Trong năm 2011, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam tương đối thấp, chỉ đạt 3,42%. Trong giai đoạn 2013-2019, con số này đã đạt mức trung bình 6,3%. Tuy nhiên, những năm sau đó, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động lại giảm dần và chỉ đạt mức 4,71% vào năm 2021.

Đồng thời, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Tỷ lệ lao động của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm mạnh từ 48,6% năm 2010 xuống 27,5% vào năm 2022. Trong khi đó cũng trong giai đoạn này, tỷ trọng lao động khu vực dịch vụ tăng từ 29,8 lên 38,9%; khu vực công nghiệp – xây dựng tăng từ 21,6 lên 33,6% (hình 2).

Hình 2. Thay đổi cơ cấu lao động của ba khu vực kinh tế 2010-2022  

Mặc dù đã có sự dịch chuyển lao động từ ngành có năng suất lao động thấp sang ngành có năng suất lao động cao hơn, tuy nhiên năng suất lao động chung của nền kinh tế vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Có nhiều nguyên nhân gây ra sự chậm trễ này, bao gồm cơ sở hạ tầng kém, hạn chế về vốn đầu tư, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, các chính sách kinh tế không đủ hấp dẫn…

Những thách thức trong quá trình nâng cao năng suất lao động quốc gia

Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức ảnh hưởng đến năng suất lao động. Cụ thể là các vấn đề sau:

Thứ nhất, mặc dù chất lượng lao động ngày càng nâng cao, tỷ lệ qua đào tạo tăng qua từng năm, tuy nhiên so với nhu cầu sử dụng lao động thực tế, người lao động còn thiếu cả về mặt kỹ thuật và kỹ năng. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2022 lực lượng lao động đã qua đào tạo từ trình độ sơ cấp nghề trở lên ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%. Trong khi đó, với bối cảnh chuyển đổi số, nền kinh tế quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức về thiếu hụt lao động có trình độ cao.

Thứ hai, năng suất lao động ngành công nghiệp tăng chậm, phát triển công nghiệp mới theo chiều rộng, chưa phát triển theo chiều sâu, dẫn tới thiếu bền vững. Người lao động trong ngành công nghiệp còn số lượng lớn chưa được đào tạo đúng chuyên môn, thiếu kỹ năng và điều kiện tiếp cận với công nghệ mới. Đây là yếu tố quan trọng khiến ngành công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh thấp, chưa tạo ra ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt.

Thứ ba, quy mô nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ, doanh nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa, năng lực đầu tư và hấp thụ công nghệ chưa cao. Với xuất phát điểm thấp, quy mô kinh tế nhỏ, việc thu hẹp khoảng cách tương đối về thu nhập bình quân và năng suất lao động của Việt Nam với các quốc gia khác trong thời gian qua là một thành tựu đáng ghi nhận nhưng chưa đủ để thu hẹp khoảng cách tuyệt đối về giá trị năng suất lao động so với các nước trong khu vực.

Thứ tư, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế, góp phần tạo động lực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số “điểm nghẽn” về thể chế trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, ảnh hưởng tới quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Thể chế kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ, đặc biệt là đối với các thị trường: lao động, công nghệ, bất động sản.

Do xuất phát điểm thấp và đang trong giai đoạn chuyển đổi, việc phát triển các hình thức thị trường có thể chế đặc thù trên gặp nhiều khó khăn, hệ thống pháp luật, chính sách cho việc phát triển các loại thị trường chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao và chưa theo kịp sự phát triển của các loại thị trường này.

Kiến nghị thúc đẩy năng suất quốc gia

Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam cần có những giải pháp nâng cao năng suất quốc gia, trong đó cần chú ý một số vấn đề chính sau:

Một là, phát triển phong trào cải thiện năng suất quốc gia phù hợp với bối cảnh mới: Việt Nam cần phát triển phong trào cải thiện năng suất quốc gia mạnh mẽ hơn và tái cấu trúc lại nội dung của các chương trình năng suất phù hợp với các giai đoạn phát triển: “Nhận thức về năng suất – Hỗ trợ cải tiến năng suất – Tự nhận thức – Tự đầu tư cải tiến năng suất”. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng xây dựng các chương trình hỗ trợ nâng cao năng suất đúng trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải và tập trung kinh phí để có được kết quả đột phá.

Cần chú trọng sự liên kết giữa các bộ, ngành, địa phương và các thành phần kinh tế để xây dựng nhiều chương trình nâng cao năng suất xuyên suốt, đồng bộ. Trong đó, các bộ, ngành, địa phương cần thành lập một đầu mối chính thức để xây dựng, triển khai, báo cáo, đánh giá các kết quả năng suất, từ đó lập kế hoạch thực hiện các nội dung nâng cao năng suất trúng đích và hiệu quả.

Tăng năng suất lao động góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  

Bên cạnh đó, cần cân bằng giữa cách tiếp cận quy mô quốc gia và cách tiếp cận quy mô ngành sao cho phù hợp. Cách tiếp cận quy mô quốc gia cho phép phạm vi tiếp cận rộng rãi và có tính đồng nhất song có thể “hỗ trợ” cả những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả.

Trong khi đó, cách tiếp cận theo quy mô ngành cho phép các chính sách và chương trình được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của từng khu vực, phù hợp trong điều kiện nguồn lực hạn chế. Tuy nhiên, cách tiếp cận theo ngành có thể dẫn đến bỏ qua một số hoạt động căn bản có tính hệ thống và kết nối liên ngành.

Hai là, tạo điều kiện về nguồn lực và chính sách thúc đẩy năng suất ở các ngành, lĩnh vực: so với các nước phát triển, tỷ trọng vốn đầu tư cho nghiên cứu phát triển, công nghệ thông tin, công nghệ cao của Việt Nam tương đối thấp. Điều này dẫn đến khoảng cách lớn khi so sánh với các nước phát triển. Vì vậy cần xem xét, điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư, tăng tỷ trọng đầu tư nghiên cứu phát triển, công nghệ thông tin và công nghệ cao, hỗ trợ thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.

Cần tập trung mời gọi và xúc tiến nhà đầu tư trong và ngoài nước có tiềm lực, thương hiệu mạnh; ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ hiện đại, có hàm lượng trí thức cao, có lợi thế cạnh tranh, thân thiện với môi trường và  sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên… Sử dụng hiệu quả các nguồn lực, cơ chế chính sách đặc thù để thúc đẩy phát triển bền vững các khu công nghệ cao. Tiếp tục tạo ra một sân chơi bình đẳng cho khu vực tư nhân trong nước bằng cách loại bỏ các trở ngại (tín dụng, đất đai, giảm thuế/miễn thuế) để khu vực này cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Đánh giá hiệu quả chính sách định kỳ, tháo gỡ những điểm nghẽn tăng trưởng năng suất và các hạn chế trong thực thi các chính sách khoa học và công nghệ, thúc đẩy năng suất nhằm điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới.

Ba là, nâng cao năng lực thực thi của các chương trình hỗ trợ nâng cao năng suất và đổi mới sáng tạo: Các cơ quan chức năng cần kiện toàn các tổ chức tư vấn về năng suất, lựa chọn và tăng cường đầu tư năng lực của các tổ chức tư vấn đạt yêu cầu tiêu chuẩn. Tăng cường hợp tác quốc tế để đào tạo, cung cấp/phát triển và khuyến khích các chuyên gia năng suất có năng lực, kiến thức sâu rộng học hỏi, cập nhật nhằm phát triển các giải pháp cải tiến năng suất để xây dựng các thể chế hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực trong nước.

Tăng cường công tác thông tin, thống kê về năng suất, đánh giá, xếp hạng năng suất nhằm thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Cung cấp nguồn lực tài chính cần thiết và phù hợp cho các chương trình hỗ trợ từ Chính phủ, khắc phục những hạn chế về cơ chế tài chính, thủ tục hành chính để tạo thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia.

Cải tiến năng suất lao động đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, thiết lập một nền sản xuất hiệu quả, đồng thời tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Chính vì vậy, việc thúc đẩy năng suất lao động còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đóng góp vào sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội của đất nước.

TS Nguyễn Thị Lê Hoa – Viện Năng suất Việt Nam

Thứ Ba, Tháng Năm 23, 2023 @ 14:31

Tác động tích cực của Luật CLSPHH đối với hệ thống pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Luật Chất lượng Sản phẩm, hàng hóa đã tác động tích cực đáng kể đối với hệ thống pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

Trong đó, đối với hệ thống pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được Quốc hội thông qua năm 2007 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng, phát triển và hoàn thiện pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nước ta.

Đạo luật này đã thay đổi toàn bộ cấu trúc của hệ thống văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nước ta, chuyển từ hệ thống các văn bản pháp luật đơn hành, với quy định còn thiếu tính thống nhất và đồng bộ thành một đạo luật chuyên ngành thống nhất, làm nền tảng pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến quản lý và thực thi quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nước ta.

Trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa và hệ thống văn bản pháp luật trước đây đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để vận dụng phù hợp với tình hình Việt Nam, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã khắc phục được bất cập, tồn tại nhiều năm trong hệ thống văn bản pháp luật, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật, làm cho hệ thống văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của nhiều nước trên thế giới.

Ảnh minh họa.

Đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, với vai trò là một văn kiện pháp lý quan trọng thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, kết quả thi hành Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã cho thấy các quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực, chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng được nâng lên, sản phẩm, hàng hóa được kiểm soát chặt chẽ từ khâu trước khi đưa ra thị trường cho đến khâu sau khi đưa ra thị trường, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế; đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về hoạt động chất lượng, đổi mới phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp; bảo đảm quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trước nhà nước và người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của mình; bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước, đồng thời xác định trách nhiệm và phân công hợp lý giữa các Bộ, ngành, địa phương.

Đối với công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, việc ban hành Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là bước tiến mới trong việc thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước nhằm hoàn thiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Về cơ bản, các quy phạm pháp luật liên quan tới quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã đáp ứng yêu cầu, quy định của các Hiệp định, Hiệp ước mà Việt Nam đã tham gia. Bên cạnh việc tuân thủ các điều ước quốc tế về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn và pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của các nước để vận dụng phù hợp với tình hình Việt Nam.

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã thực sự là công cụ pháp lý quan trọng của nước ta trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia trước sức ép của các cường quốc trong quá trình hội nhập, đồng thời, tôn trọng các điều ước quốc tế về chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.

 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã thực sự là công cụ pháp lý quan trọng của nước ta. (ảnh minh họa) 

Đối với các cam kết trong những thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham gia, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam về cơ bản đều đã tương thích. Các nghĩa vụ mang tính bắt buộc hoặc đã được quy định trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, hoặc được quy định tại các Luật liên quan (Bộ luật Dân sự, Luật Hải quan…) hoặc được hướng dẫn cụ thể bằng các Nghị định quy định chi tiết và các Thông tư hướng dẫn thi hành.

Mặc dù vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa để phù hợp với hoạt động thực tiễn cũng như đáp ứng nhu cầu hội nhập vẫn là công việc được liên tục tiến hành.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế với các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hệ thống các văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà trọng tâm là Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng cần được đánh giá một cách toàn diện để không chỉ đáp ứng các nghĩa vụ trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia mà còn phù hợp với lộ trình hội nhập của Việt Nam trong thời gian tới.

Theo VietQ

Thứ Tư, Tháng Năm 10, 2023 @ 10:45

Tiêu chuẩn hóa giúp doanh nghiệp xác định được chuẩn mực hoạt động sản xuất kinh doanh

Khi hoạt động tiêu chuẩn hoá được đẩy mạnh, doanh nghiệp sẽ xác định được chuẩn mực của hoạt động sản xuất kinh doanh, xác định chất lượng sản phẩm thông qua tiêu chuẩn cụ thể. Từ đó, xác định rõ và có phương pháp cải tiến quy trình sản xuất, cải tiến cách thức tạo ra sản phẩm chất lượng. Để làm được điều này cần lấy tiêu chuẩn làm cơ sở đối chiếu, so sánh.

Tiêu chuẩn hóa giúp doanh nghiệp xác định chuẩn mực hoạt động sản xuất kinh doanh. Ảnh minh họa. 

Mục tiêu chung của Chiến lược tiêu chuẩn hóa

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc xây dựng Chiến lược Tiêu chuẩn hóa quốc gia đến năm 2030 của Việt Nam là vô cùng cần thiết, phù hợp với xu hướng toàn cầu. Theo đó, mục tiêu của Chiến lược là đưa tiêu chuẩn hóa trở thành một biện pháp kỹ thuật, là công cụ đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội, thông qua việc tăng cường năng lực quản lý của các bộ ngành, địa phương; hỗ trợ các sản phẩm của Việt Nam đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế gắn với các mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở thực hành có trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác nhau (bao gồm các tiêu chuẩn thực hành về trách nhiệm xã hội tích hợp với yêu cầu về trách nhiệm xã hội trong các tiêu chuẩn đặc thù);

Tập trung nguồn lực thúc đẩy nghiên cứu và phát triển tiêu chuẩn quốc gia gắn với hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy xã hội hóa trong hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn;

Phát triển và chuẩn hóa nguồn nhân lực về tiêu chuẩn hóa nhằm nâng cao năng lực xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn đối với các cơ quan quản lý nhà nước, viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ban kỹ thuật TCVN, ban biên soạn. Hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút đào tạo nhân lực trong hoạt động tiêu chuẩn hóa;

Nâng cao vị thế của Việt Nam tại các tổ chức, diễn đàn tiêu chuẩn hóa khu vực và quốc tế, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và uy tín cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng, triển khai đầy đủ, đồng bộ các cam kết quốc tế về tiêu chuẩn hóa và minh bạch hóa…

Tiêu chuẩn hoá mang đến cả cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp

Nhấn mạnh vai trò của Chiến lược Tiêu chuẩn hóa đối với doanh nghiệp, ông Phùng Mạnh Trường – Phó Viện trưởng phụ trách Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) cho biết, tiêu chuẩn hoá mang đến cả cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù là cơ hội hay thách thức chúng ta nên đón nhận ở khía cạnh tích cực.

Trước tiên về mặt cơ hội, một là, khi hoạt động tiêu chuẩn hoá được đẩy mạnh, doanh nghiệp sẽ xác định được chuẩn mực của hoạt động sản xuất kinh doanh, xác định chất lượng sản phẩm thông qua tiêu chuẩn cụ thể. Từ đó, xác định rõ và có phương pháp cải tiến quy trình sản xuất, cải tiến cách thức tạo ra sản phẩm chất lượng. Để làm được điều này cần lấy tiêu chuẩn làm cơ sở đối chiếu, so sánh.

Hai là, doanh nghiệp cũng có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn, gia tăng khả năng mở rộng thị trường (bằng cách phát triển sản phẩm mới với chất lượng ngày càng tốt hơn), thâm nhập các thị trường trên thế giới.

Ba là, thông qua tiêu chuẩn hoá, doanh nghiệp còn giảm được chi phí sai lỗi, nâng cao chất lượng quy trình, chất lượng sản phẩm hàng hoá, tối ưu hoá hiệu quả hoạt động. 

Bốn là, doanh nghiệp thông qua tiêu chuẩn hoá có khả năng nâng cao năng lực quản lý, quản trị, điều hành. Đây cũng là điều mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang chú trọng.

Năm là, thông qua quá trình xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, doanh nghiệp sẽ có định hướng để đầu tư nguồn lực phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống máy móc, phòng thử nghiệm, phát triển sản phẩm, hệ thống điều hành doanh nghiệp.

Về mặt thách thức, ông Trường cho rằng, trong bối cảnh vai trò của tiêu chuẩn ngày càng được chú trọng ở cấp độ doanh nghiệp, tiêu chuẩn hoá cũng tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được cơ hội, xu hướng đổi mới thì sẽ có khả năng nâng cao vị thế trên thị trường. Xu hướng tiêu chuẩn hoá cũng khiến doanh nghiệp bắt buộc phải có những đầu tư để đáp ứng yêu cầu từ các tiêu chuẩn về sản phẩm hàng hoá, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Ra tới sân chơi lớn cuộc cạnh tranh sẽ là sòng phẳng, ai bắt kịp xu hướng sẽ thành công, còn không sẽ là thách thức.

TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL khẳng định, Chiến lược Tiêu chuẩn hóa quốc gia đến năm 2030 do Tổng cục TCĐLCL xây dựng dự thảo nếu được ban hành sẽ góp phần thúc đẩy hình thành mô hình quản lý hoạt động tiêu chuẩn một cách toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, nâng cao trình độ quốc tế hóa tiêu chuẩn, đồng thời đẩy nhanh quá trình hình thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu thị trường đang thay đổi không ngừng và nhanh chóng, đảm bảo các yêu cầu đặt ra tại Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 của Chính phủ.

Theo VietQ

Thứ Năm, Tháng Năm 4, 2023 @ 9:19

Doanh nghiệp nâng cao năng suất nhờ chủ động áp dụng tiêu chuẩn quốc tế

Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực, vị thế trên thương trường mà còn nâng cao năng suất cho chính mình.

Với tên gọi là Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn, Tiêu chuẩn HACCP là các nguyên tắc yêu cầu trong thiết lập hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, được áp dụng cho các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm, mỹ phẩm và các lĩnh vực liên quan.

HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points) là hệ thống quản lý mang tính phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm thông qua nhận biết mối nguy, thực hiện biện pháp phòng ngừa và kiểm soát tại các điểm tới hạn. Các nguyên lý của HACCP được thống nhất trên toàn thế giới và có thể áp dụng trong tất cả các ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống, trong việc phân phối và bán sản phẩm. Hệ thống này có thể áp dụng cho các sản phẩm đang tiêu thụ trên thị trường cũng như sản phẩm mới. Việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1990 đối với ngành chế biến thủy sản do yêu cầu của các thị trường nhập khẩu thủy sản của Việt Nam.

Hiện nay, HACCP đã được áp dụng cho nhiều loại hình sản xuất, chế biến thực phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thực phẩm ở Việt Nam thường xây dựng hệ thống HACCP và được chứng nhận theo một trong các tiêu chuẩn như TCVN 5603:2008, HACCP Code 2003 (của Australia)…

HACCP giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất sản phẩm đầu ra.

Tại Công ty TNHH MTV Hue One Food – đơn vị áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP để sản xuất bánh ép Huế, đại diện Công ty cho biết, áp dụng HACCP giúp cải tiến năng lực sản xuất, mọi công đoạn đều đảm bảo kiểm soát chặt chẽ từ công nhân đến máy móc, dụng cụ.

Khi chưa áp dụng tiêu chuẩn HACCP, Công ty sản xuất từ 10 đến 15 thùng bánh/ngày, nhưng sau khi áp dụng tiêu chuẩn HACCP và sử dụng hệ thống máy móc hiện đại năng suất tăng lên 30 đến 40 thùng/ngày.

Trong lĩnh vực sản xuất thực phẩm, tiêu chuẩn ISO 22000 là được DN chú trọng áp dụng. Là tiêu chuẩn được công nhận trên toàn cầu, doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 22000 sẽ dễ dàng mở rộng thị phần và được công nhận trên toàn thế giới, sản phẩm có cơ hội cạnh tranh cao hơn so với đối thủ.

Mang đến sự uy tín và minh bạch, DN trong chuỗi cung cấp thực phẩm áp dụng và đạt được chứng chỉ ISO 22000, đồng nghĩa với việc đơn vị đó sở hữu hệ thống quản lý tốt về an toàn thực phẩm và đảm bảo cung cấp các sản phẩm chất lượng, uy tín nhất cho người dùng.

Một doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực chế biến, phân phối và kinh doanh sản phẩm sầu riêng đông lạnh, cũng áp dụng thành công tiêu chuẩn HACCP một cách kịp thời, nhanh chóng, nhờ nắm bắt rõ yêu cầu thị trường. Công ty TNHH Thương mại Mười Điển đã trở thành một trong những nhà phân phối sầu riêng đông lạnh hàng đầu tại các siêu thị, cửa hàng lớn trong nước. 

Với khát vọng nâng tầm nông sản Việt, Mười Điển luôn phấn đấu trở thành công ty hàng đầu về xuất nhập khẩu nông sản, đặc biệt là sản phẩm sầu riêng đông lạnh, giúp người tiêu dùng trong và ngoài nước tiếp cận nguồn sản phẩm đa dạng với giá cạnh tranh. Với việc xây dựng tốt hệ thống quản lý an toàn thực phẩm ISO 22000:2018 tích hợp cùng tiêu chuẩn HACCP, công ty đã kiểm soát sản xuất ổn định, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài ra, còn tạo hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới chuyên nghiệp, từ đó công tác điều hành hiệu quả hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Điều quan trọng nhất, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng khi dùng sản phẩm của công ty.

Theo VietQ

Thứ Tư, Tháng TưTháng Tư 26, 2023 @ 17:08

Xây dựng giải pháp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết số 50/NQ-CP, sáng ngày 26/04/2023, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) đã tổ chức chương trình hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện dự thảo đề án về giải pháp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động.

Tham dự hội thảo có Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định, TS. Indra Pradana Singawinata – Tổng Thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á (APO), TS. Vũ Minh Khương – Chuyên gia APO, Đại học Quốc gia Singapore, ông Arsyoni Buana – Ban thư ký APO, TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL, đại diện các Vụ, Viện, Trung tâm, Văn phòng cùng đông đảo đội ngũ công chức, viên chức thuộc Tổng cục.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định phát biểu tại hội thảo. 

Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho biết: “Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và phát triển, yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tăng trưởng của mọi quốc gia chính là khoa học công nghệ, trong đó năng suất chất lượng là yếu tố đảm bảo cho mọi thành công. Ngoài ra, khoa học công nghệ còn là yếu tố có thể giúp các nền kinh tế đang phát triển thoát khỏi bẫy “thu nhập trung bình”, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu.

Có thể nói, trong kinh tế thị trường, giải pháp đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động quốc gia là yếu tốt then chốt để tăng trưởng trên cơ sở khoa học công nghệ luôn được cải tiến để phù hợp với tính chất, phạm vi, quy mô của tổ chức, doanh nghiệp tại thời điểm nhất định. Nếu một quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp có giải pháp đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động tốt sẽ đưa đất nước phát triển, ngược lại nếu không có các giải pháp hoặc giải pháp không hiệu quả thì sẽ bị lạc hậu và tụt lại phía sau”.

TS. Indra Pradana Singawinata – Tổng Thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) 

TS. Indra Pradana Singawinata – Tổng Thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) cho rằng, cùng với sự hỗ trợ của tổ chức APO, kế hoạch tổng thể về nâng cao năng suất lao động thông qua khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã có nhiều tăng trưởng tuy nhiên vẫn tồn tại hạn chế. Chính vì vậy, để tăng năng suất lao động, Chính phủ Việt Nam cần đặt ra mục tiêu dài hạn, trong đó vai trò của nâng cao năng suất cần được chú trọng nhiều hơn và cần sự tham gia, phân công cụ thể giữa các bộ, ngành chủ trì thực hiện. TS. Indra Pradana Singawinata cũng đưa ra khuyến nghị về quản trị, tái cơ cấu, các lĩnh vực trọng tâm bao gồm ngân sách, nhân sự của tổ chức năng suất quốc gia nhằm phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của Việt Nam.

TS. Indra Pradana Singawinata – Tổng Thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) trao tặng sách cho lãnh đạo Bộ KH&CN.

Tại Hội thảo, TS. Hà Minh Hiệp, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL đã có bài phát biểu tổng quan Dự thảo Đề án về giải pháp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động. Theo TS. Hà Minh Hiệp, nổi bật với nhiều nội dung: Quá trình hoạt động thúc đẩy năng suất tại Việt Nam diễn ra xuyên suốt từ năm 1996 cho đến nay, được chia thành 3 thập niên. Trong đó, giai đoạn từ năm 2010-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 712/QĐ-TTg ngày 21/5/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”, đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong thúc đẩy hoạt động nâng cao năng suất tại Việt Nam phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế và đổi mới doanh nghiệp.

TS. Hà Minh Hiệp, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL trình bày tham luận tại Hội thảo

Cho đến giai đoạn này, với Chương trình 1322, năng suất càng được chú trọng và phát triển mạnh mẽ hơn khi đã trở thành môn học trong các chương trình giảng dạy của các trường đại học, cao đẳng, trường nghề. Chương trình đào tạo 5S cũng dần được đưa vào giảng dạy trong môi trường cấp 3, cấp 2 và tiến tới là môi trường cấp 1.

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong quá trình nâng cao năng suất lao động, trong đó nổi bật nhất 4 trụ cột: Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Hệ thống giáo dục và đào tạo; Mối liên kết giữa tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp nội địa…

Dựa trên các điều kiện đó, TS. Hà Minh Hiệp đã nêu 6 quan điểm để xây dựng đề án giải pháp nâng cao năng suất lao động: Mô hình tăng trưởng mới; Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực chính; Hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI); Đồng bộ các chính sách khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; Sự tham gia của các cấp, ngành, doanh nghiệp, cộng đồng; Phát triển nguồn nhân lực.

 TS. Vũ Minh Khương – Chuyên gia APO, Đại học Quốc gia Singapore chia sẻ “Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất Việt Nam đến 2045 – đề xuất cải cách và các khuyến nghị chính sách” tại Hội thảo

Tại hội thảo, TS. Vũ Minh Khương – Chuyên gia APO, Đại học Quốc gia Singapore đã trao đổi về “Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất Việt Nam đến 2045 – đề xuất cải cách và các khuyến nghị chính sách”.

Trong bài trình bày của mình, TS. Vũ Minh Khương đã chỉ ra 4 động cơ giúp năng suất lao động của một quốc gia trở nên phát triển vượt bậc: Engagement (Sự cộng hưởng), Enlightenment (Sự khai sáng), Engineering (Sự kiến tạo), Evolution (Sự cải tiến). Trong đó, sức mạnh lớn nhất để đất nước có thể “cất cánh”, thúc đẩy phát triển năng suất một cách vượt bậc đó chính là tổng lực của một dân tộc.

Các đại biểu cũng được nghe phần giới thiệu về Tổ chức APO và hoạt động của APO tại Việt Nam của ông Arsyoni Buana – Ban Thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á. Được biết trong năm nay, một số dự án như: Xây dựng kế hoạch phát triển năng lực thể chế cho các tổ chức phi lợi nhuận; Diễn đàn năng suất quốc gia; Nhiệm vụ nghiên cứu về năng suất xanh hay Nghiên cứu về thực hành quản lý tốt sẽ được tiếp tục triển khai.

 Ông Arsyoni Buana – Ban thư ký Tổ chức Năng suất Châu Á (APO).

Tại hội thảo, các đại biểu cũng được nghe phần đánh giá, góp ý sâu sắc từ các chuyên gia nhằm hoàn thiện, xây dựng nội dung giải pháp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất.

Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định đánh giá cao ý kiến đóng góp, chia sẻ của đại biểu, chuyên gia, đồng thời nhấn mạnh các cơ quan, đơn vị sẽ tổng hợp ý kiến, kiến nghị, đề xuất nêu tại hội thảo và hoàn thiện sớm nhất từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao nâng suất lao động đến năm 2030.

Thứ Tư, Tháng TưTháng Tư 5, 2023 @ 23:06

Nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động ngành Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trong bối cảnh hội nhập

Ngày 05/04/2023, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo khoa học “Tăng cường, thúc đẩy công tác Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng trong giai đoạn tới phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”. Chương trình đã nhận được sự tham gia của hơn 150 đại biểu đại diện cho các Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các nhà khoa học, chuyên gia thuộc lĩnh vực TCĐLCL.

Tham dự Hội thảo có ông Lê Xuân Định – Thứ trưởng Bộ KH&CN; ông Nguyễn Đức Kiên – Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Văn phòng Trung ương Đảng; ông Nguyễn Việt Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa Giáo – Văn Xã, Văn phòng Chính phủ; ông Diêm Đăng Việt – Phó Vụ trưởng Vụ Thanh tra, Thanh tra Chính phủ; ông Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL; ông Nguyễn Hoàng Linh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL; đại diện các Bộ, ngành; các nguyên lãnh đạo Tổng cục; các Chi cục TCĐLCL, nhà khoa học, nhà quản lý,… hoạt động trong lĩnh vực TCĐLCL.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định phát biểu tại Hội thảo. 

Phát biểu khai mạc chương trình, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh, cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động TCĐLCL đã trải qua chặng đường hơn 60 năm xây dựng và phát triển. Thời gian qua, các thế hệ cán bộ ngành TCĐLCL đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, tận dụng tốt cơ hội để tăng cường năng lực và đổi mới phương thức hoạt động, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh của Việt Nam, thể hiện sự năng động, nhạy bén, gắn khoa học và công nghệ với thực tiễn sản xuất và đời sống đất nước.

TCĐLCL là một trong số ít ngành đã xây dựng được đủ 3 Đạo Luật chuyên ngành bao quát cả 3 mặt hoạt động chủ yếu của ngành mình. Hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã và đang được hoàn thiện, là cơ sở cho việc quản lý thống nhất của Nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo đo lường, quản lý chất lượng và các hoạt động liên quan khác. Đội ngũ công chức, viên chức, người lao động hoạt động trong lĩnh vực TCĐLCL phát triển cả về số lượng và chất lượng, có trình độ kiến thức và kỹ năng được cập nhật, nâng cao thường xuyên.

Song song với kết quả đạt được, Thứ trưởng cũng cho biết, năng lực, tổ chức, hoạt động về TCĐLCL hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn phát triển mới và hội nhập của đất nước, vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Một số nguyên nhân cơ bản gồm: Nhận thức chưa đầy đủ, thiếu thống nhất của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền về công tác TCĐLCL; Công tác đầu tư và phát triển các tổ chức kỹ thuật về TCĐLCL còn thiếu quy hoạch, định hướng chưa đồng bộ; Chưa coi hoạt động TCĐLCL là công cụ thiết yếu trong quá trình nghiên cứu làm chủ công nghệ cao, công nghệ mới, trong quá trình sản xuất, sử dụng trang thiết bị thuộc công nghiệp quốc phòng, an ninh; Công tác thanh, kiểm tra, giám sát, xử lý sai phạm và hoạt động phối hợp của các bộ, ngành, địa phương trong công tác TCĐLCL chưa thống nhất.

“Chương trình hôm nay nhận được sự tham gia hưởng ứng của hơn 150 đại biểu đại diện cho các Bộ, ngành Trung ương và địa phương; các nhà khoa học, chuyên gia thuộc lĩnh vực TCĐLCL. Chúng tôi tin tưởng và kỳ vọng qua Hội thảo, các tư liệu, luận cứ khoa học sẽ được thảo luận, phân tích để làm sáng tỏ thêm vai trò, giá trị của ngành TCĐLCL; đồng thời kiến nghị những định hướng và giải pháp góp phần nâng cao vị thế, hiệu quả hoạt động của TCĐLCL trong bối cảnh hội nhập toàn cầu của thời đại cách mạng công nghệ lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay”, Thứ trưởng Định nói.

TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL. 

Tại Hội thảo, TS. Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL đã trình bày Báo cáo đánh giá về công tác TCĐLCL trong giai đoạn vừa qua và định hướng nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn tới, trong đó tập trung vào 3 nội dung chính: Báo cáo sơ bộ về thực trạng hoạt động ngành TCĐLCL; Một số khó khăn, hạn chế đối với lĩnh vực TCĐLCL; Đề xuất định hướng trong việc nâng cao hoạt động của ngành.

Trong đó, ông Hiệp đặc biệt nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số nói chung và chuyển đổi số ngành TCĐLCL nói riêng: “Tổng cục đã xây dựng Đề án Chuyển đổi số ngành TCĐLCL, đây là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn, vì khi chuyển sang phương thức làm việc mới đòi hỏi phải thay đổi văn bản quy phạm pháp luật, thay đổi nhận thức, phương thức làm việc. Theo đó, toàn bộ dữ liệu số trong ngành TCĐLCL sẽ trở thành dữ liệu của quốc gia, vì vậy chúng ta cần hình thành các cơ chế, cách thức chia sẻ nhằm mục tiêu khai thác hiệu quả, triệt để kho dữ liệu nêu trên”.

Cũng tại chương trình, bà Nguyễn Thị Mai Hương – Vụ trưởng Vụ Đánh giá hợp chuẩn và hợp quy có Báo cáo về một số định hướng sửa Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn Kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và các quy định pháp luật có liên quan; ông Trần Quốc Dũng có Báo cáo về hiện trạng và định hướng phát triển hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực TCĐLCL.

 Đoàn Chủ tịch điều hành buổi thảo luận (từ trái sang: ông Hà Minh Hiệp – Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục TCĐLCL; ông Lê Xuân Định – Thứ trưởng Bộ KH&CN; ông Nguyễn Hoàng Linh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL).

Tiếp đến là phần trao đổi và thảo luận giữa Đoàn Chủ tịch và các đại biểu tham gia chương trình. Nhiều ý kiến xác đáng, thiết thực, một số vấn đề “nóng” được đưa ra bởi những nguyên lãnh đạo, chuyên gia hoạt động lâu năm trong lĩnh vực TCĐLCL. Đoàn Chủ tịch ghi nhận tính mới, tính thực tiễn của các câu hỏi, đồng thời đưa ra những câu trả lời xác đáng, mang lại không khí sôi nổi cho buổi thảo luận.

Một số đại biểu là các nguyên lãnh đạo, chuyên gia về TCĐLCL phát biểu tại buổi thảo luận. 

Thứ trưởng Lê Xuân Định đánh giá: “Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận vào các vấn đề: Định hướng phát triển hoạt động TCĐLCL giai đoạn tới và xác định những vấn đề trọng tâm; các nhiệm vụ, giải pháp trong lĩnh vực TCĐLCL. Với tinh thần trách nhiệm và tâm huyết, ý kiến đóng góp của các nhà quản lý, nhà khoa học và chuyên gia tại Hội thảo có ý nghĩa quan trọng, giúp cho Bộ KH&CN tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động TCĐLCL; định hướng, tập trung nghiên cứu trong giai đoạn tới, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác TCĐLCL”.